huyết
Nghiệp Báo và Tái Sanh là căn bản của nền triết học
Plato. Con người trãi qua một "chu kỳ của sự cần
thiết". Tội lỗi mà con người gây ra ở phần phân
nửa đầu tiên của cuộc hành trình, con người phải trả
trong phần phân nửa sau. Trong quyển "Republic",
Nghiệp Báo được biểu hiện trong nhân vật Lachesis, con gái
của "sự cần thiết", mà chúng sanh ở cảnh vô hình
đã chọn để đầu thai vào. Orpheus chọn hình thể một con
thiên nga. Thersites chọn hình con dã nhân. Agamemmon chọn hình
con ó. Cùng một lối ấy, vài con thú trở thành người
rồi lại thành một người khác nữa. Người bất công
trở thành man rợ, người công minh chánh trực trở nên văn
minh lịch sự.
Trong thời kỳ tiền chiến của dân tộc Ba Tư, sự gặp
gỡ Đông và Tây tạo nên cuộc cách mạng chống lối
"thế mạt luận"(eschatology - luận về cứu cánh
tối hậu của loài người sau khi chết và sau khi tận thế)
giản dị của Homer, và con người bắt đầu tìm một giải
thích sâu hơn về đời sống. Cũng nên ghi nhận rằng cuộc
tìm kiếm ấy khởi đầu do những người Hy Lạp vùng
Tiểu-Á-Tế-Á (Ionian Greek of Asia Minor), mà những người
nầy lại chịu ảnh hưởng của Ấn Độ.
Theo lời người ghi chép lại tiểu sử của Pythagoras [1],
ông sanh vào lối 588 trước D.L. tại đảo Samos. Ông du
lịch rất nhiều và đã nghiên cứu giáo huấn của người
Ấn. Chính Pythagoras đã truyền dạy thuyết Nghiệp Báo và Tái
Sanh cho người phương Tây.
Trong quyển "Greek Thinkers", sử gia Garbe viết
rằng: "Thật không phải quá đáng khi qủa quyết rằng
nhờ sự trung gian của người Ba tư (Persia) mà những người
Hy Lạp hiếu kỳ trong thời Đức Phật đã thâu thập
những kiến thức ít nhiều chính xác về thời kỳ văn hóa
cực thịnh của phương Đông."
Thuyết Tái Sanh Dưới Mắt Những Người
Khác
Bhavagad Gita:
"Cũng như người kia vứt bỏ bộ quần áo cũ để
mặc y phục mới vào, người nọ vứt bỏ thể xác quá cũ
để nhập vào một thân hình mới."
"Con người sanh ra chắc chắn phải chết, và chết
rồi chắc chắn sẽ tái sanh trở lại."
Herodotus:
"Người Ai Cập truyền bá lý thuyết chủ trương
rằng linh hồn con người trường tồn bất diệt. Khi thân
xác hư hoại, linh hồn sẽ nhập vào một xác thân khác
sẳn sàng đón nhận."
Pythagoras:
"Tất cả đều có linh hồn, tất cả là linh hồn
lang thang, quanh quẩn trong thế gian hữu cơ và diễn tiến
theo ý nguyện hay định luật trường cửu."
Plato:
"Linh hồn thọ hơn thể xác. Linh hồn liên tục sanh
rồi tái sanh, tái sanh trở lại trên thế gian."
Ovid viết về Pythagoras, Dryden phiên dịch:
"Cái được gọi là chết chỉ là vật chất cũ rít
nằm trong hình thức mới.
"Cũng như người ta thay một bộ y phục, và trong
những bộ quần áo khác nhau, bị đẩy đưa từ nơi nầy
đến nơi khác, linh hồn vẫn là một, chỉ có hình thể
đổi mới.
"Và cũng như loại sáp mềm dẻo mà người ta đổ
vào khuôn, mặt sáp sẽ ghi nhận hình ảnh của cái khuôn,
cùng một lúc hình ảnh cũ bị xóa bỏ. Chỉ có hình
thức biến đổi, sáp vẫn là sáp.
"Như vậy, được sanh ra là bắt đầu trở thành
một cái gì mới, khác hơn cái trước.
"Và những hình thức mới ấy cũng biến đổi
nữa. Không có cái gì giữ nguyên vẹn hình thể mà không
liên tục thay hình dổi dạng."
Schopenhauer:
"Ta thấy rằng thuyết luân hồi khởi xuất từ
thuở sơ khai, trong thời kỳ vàng son của nhân loại, luôn
luôn lan rộng trong dân gian, được coi là tín ngưỡng
của phần lớn và cũng là giáo lý của tất cả tôn giáo,
ngoại trừ tín ngưỡng của người Do Thái và hai tôn giáo
xuất xứ từ hình thức rất tế nhị của tín ngưỡng
ấy. Các thuyết luân hồi đã biến chuyển đến rất
gần chân lý mà Phật Giáo đề cập . Như vậy, trong lúc
Cơ Đốc Giáo tự an ủi với những ý tưởng sẽ tự
gặp mình trở lại trong một thế gian khác, và cũng sẽ
tự nhận ra tức khắc, thì theo các tôn giáo khác, sự
gặp gỡ trở lại đã diễn tiến nhiều lần, nhưng ta không
thể nhận ra. Trong những kiếp tái sanh liên tục tái
diễn, những người đã có liên quan mật thiết hoặc có
tiếp xúc ngay với nhau sẽ gặp lại nhau trong một kiếp
sống vị lai, cũng lại có sự liện hệ với nhau hoặc y
hệt, hoặc tương tợ, và những tình cảm, thiện hay ác,
đối với nhau như trong kiếp sống nầy.
"Cũng như đã được ghi chú trong kinh Phệ Đà
(Vedas) và tất cả các kinh sách khác ở Ấn Độ, thuyết
luân hồi được xem là nền tảng của Bà La Môn Giáo và
Phật Giáo. Cho đến nay, phần lớn các dân tộc Á Đông
không phải Hồi Giáo, hơn phân nữa nhân loại, vẫn tin tưởng
chắc chắn thuyết luân hồi và đời sống thực tế
hằng ngày vẫn chịu ảnh hưởng xâu sắc của thuyết
ấy.
"Đó cũng là tín ngưỡng của người Ai Cập, và
từ Ai Cập, Orpheus, Pythagoras và Plato đã nhiệt thành
nhận lãnh, và đặc biệt giữ lại. Giáo lý nầy cũng
được dạy trong những bí ẩn của người Hy Lạp, chắc
chắn không thể chối cải là theo quyển thứ chín trong Định
Luật của Plato."
"Sách Edda, đặc biệt là trong tập
"Volusna", cũng dạy thuyết luân hồi; không ít hơn
nền tảng của những người theo tín ngưỡng Druid (một
hệ thống tín ngưỡng trước thời Cơ Đốc Giáo).
"Theo như tất cả những gì được trình bầy, sự
tin tưởng nơi thuyết luân hồi tự nó là niềm tin quả
quyết tự nhiên của con người mỗi khi nghĩ đến vấn đề
nầy mà không bị ám ảnh trước ..." (The World As Will
And Idea)
Hume:
"Thuyết luân hồi là hệ thống duy nhất đề cập
đến trạng thái vĩnh cửu trường tồn mà triết học có
thể quan tâm đến."
Disraeli:
"Không có hệ thống nào vừa giản dị, vừa ít va
chạm sự hiểu biết của chúng ta bằng thuyết luân hồi.
Thuyết ấy xem những đau khổ và lạc thú trong kiếp
sống nầy như sự thưởng hay phạt các hành động của
ta trong một trạng thái khác."
Dante:
"Và đây hỡi con, do nơi trọng lượng lúc chết,
con sẽ trở lại xuống đây."
Emerson:
"Cái định mệnh mà chúng ta phải lãnh là do chính
ta đã chuẩn bị một cách hồn nhiên, vô ý thức, trong
rất nhiều kinh nghiệm mà ta không thấy nổi giá trị. Có
lẽ chúng ta còn tiếp tục nhận lãnh định mệnh ấy
trong nhiều kiếp nữa, trước khi hoàn tất công việc
trả quả."
Lesling:
"Tại sao tôi không thường trở lại đây để lãnh
hội những hiểu biết mới, những kinh nghiệm mới? Trong
mỗi chuyến đi, tôi có đem theo đầy đủ kinh nghiệm và
hiểu biết để khỏi phải phiền phức trở lại không?"
Huxley:
"Cũng như chủ thuyết tiến hóa luận, thuyết
chuyển sinh linh hồn bắt nguồn từ thực tế.
"Kinh nghiệm sống hằng ngày làm chúng ta quen dần
với những sự kiện được gom lại dưới danh từ
truyền thống. Mỗi người chúng ta đều mang theo với mình
những đặc điểm của cha mẹ, đôi khi của thân quyến
xa xôi. Riêng về những thói quen, những khuynh hướng hành
động mà ta gọi là "tâm tánh", thường được
chuyển đi rất xa theo chiều dọc, từ ông bà xuống con cháu,
và theo chiều ngang, trong quyến thuộc. Như vậy, ta có
thể nói rằng tánh tình, tinh thần và tinh hoa trí thức
của con người, chắc chắn có thuyên chuyển từ người
nầy sang người khác và từ thế hệ trước đến thế
hệ sau. Bên trong đứa trẻ sơ sinh đã có ngủ ngầm
những đặc điểm truyền thống, và cái "ta" chỉ
là một khối năng lực tiềm tàng, thêm vào chút gì khác.
Nhưng tiềm năng ấy rất sớm nổi lên mặt và trở thành
sức mạnh thật sự, một thực lực, từ tuổi trẻ trở
lên, biểu hiện lúc lu mờ khi sáng tỏ, lúc yếu, lúc
mạnh, lúc đúng, lúc sai lầm, và mỗi lần đổi sang từ
thể xác nầy đến một xác thân khác thì tâm tánh riêng
biệt ấy lại bị một tâm tánh khác biến đổi.
"Những triết gia Ấn Độ gọi cái "Tánh"
đồng nghĩa với Karma (nghiệp). Chính cái nghiệp chuyển
từ đời này đến đời khác và nối liền các kiếp
sống trong một chuỗi dài những kiếp chuyển sinh, và các
triết học gia ấy chủ trương rằng trong mỗi kiếp
sống, cái nghiệp biến đổi, không những do truyền
thống mà còn do chính động của mình"
Tennyson:
"Hoặc nếu tôi đến đây xuyên qua những kiếp
sống thấp kém, mặc dầu cả mọi kinh nghiệm trong quá
khứ đã vững chắc đóng khuôn trong tâm, có thể tôi quên
đi số phần yếu kém của tôi. Bởi vì năm đầu tiên
của chúng ta đã bị lãng quên, những vang âm trí nhớ,
vốn tới lui thường xuyên, không còn lai vãng."
Wordsworth:
"Cái sanh của chúng ta chỉ là một giấc điệp và
một sự lãng quên. Linh hồn vì tinh tú của đời sống,
xuất hiện với ta hôm nay, đã có cơ sở ở một nơi và
sau đó, đến đây từ phương xa: không trọn vẹn trong
sự lãng quên, cũng không trơ trọi."
Shelley:
"Nếu không có lý do nào để giả định rằng ta đã
có sống trước thời kỳ hiện tại bắt đầu biểu
hiện, thì cũng không căn cứ vào đâu để giả định
rằng chúng ta sẽ còn tiếp tục sống nữa sau khi kiếp
sống hiện tại chấm dứt."
Giáo sư Francis Bowen của đại học Harvard viết như sau để
kêu gọi tín đồ Cơ Đốc Giáo nên chấp nhận thuyết tái
sanh :
"Đời sống của chúng ta trên một quả cầu là
một qui phạm và một sự chuẩn bị tiến đến đời
sống sau này, cao thượng và vĩnh viễn hơn. Nhưng nếu
phải bị giới hạn trong thời gian của một kiếp sống
thì thật là ngắn ngủi, và hình như khó đầy đủ mục
tiêu quan trọng như thế. Bảy mươi năm chắc chắn không
đủ để chuẩn bị cho thời gian vĩnh cửu vô cùng tận.
Nhưng có gì bảo đảm cho ta rằng giai đoạn tập sự cho
linh hồn phải bị gò bó trong thời hạn hẹp hòi như
vậy? Tại sao giai đoạn ấy không thể tiếp tục kéo dài
thêm hay lặp lại trong một chuỗi dài những thế hệ kế
tiếp, một cái tính tạo sinh khí cho một số thể xác vô
định? Từ thân này đến thân khác, và mang đến cho mỗi
thể xác những kiến thức đã thâu lượm, tánh tình đã
tạo nên, khí chất và tâm tánh sẵn có trong những giai đoạn
kế tiếp liền đó. Nó không cần biết đến quá khứ
của nó, mặc dầu đang mang quả và chịu sâu rộng của
quá khứ ấy trong thể chất hiện tại. Bao nhiêu đoạn dài
của kiếp sống quá khứ đã bị lãng quên hoàn toàn,
mặc dầu đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng tâm
và trí. Do đó có sự khác biệt giữa người này và người
kia. Trách nhiệm của chúng ta không vì sự quên lãng ấy mà
giảm kém đi. Hình như ta vẫn chịu ảnh hưởng của sự
lạm dụng thì giờ, mặc dầu đã quên hẳn ta đã phung phí
như thế nào,và ở đâu. Chính đến nay, chúng ta vẫn còn
đang lập lại những quả đắng, do nơi sức khỏe yếu kém,
và tham vọng hư hèn của những hành động dễ duôi vô ý
thức và tội lỗi đã bị lãng quên, bị lãng quên vì chúng
quá nhiều.
"Nếu mỗi linh hồn tuyệt đối là một tạo vật
mới, mỗi đời sống phải được tạo ra hoàn toàn, thì
một cách hợp lý, ta có thể hỏi tại sao các linh hồn có
thể khác biệt nhau như thế từ lúc đầu? Nếu thuyết di
thể cũng nằm trong chương trình của một chánh quyền trên
thiên đàng để trị vì thế gian thì tất cả những khó
khăn trên đều tự nhiên tan biến cùng một lúc. Đứng
về một phương diện, mọi người đều được sanh vào
trạng thái mà chính mình tạo trong lịch trình quá khứ
của mình. Lý thuyết chủ trương rằng mình phải chịu
hậu quả của những tội lỗi mà tổ tiên gây nên là
một bài học khó. Nhưng không ai có thể phản đối về cái
thân phận mà chính mình đã thừa hưởng của chính mình,
của chính tự ngã của mình trong một trạng thái ở
kiếp sống quá khứ. Cái mà ta gọi là chết chỉ là
biến trạng đưa đến một đời sống khác trên quả địa
cầu và nếu đời sống ấy không được cao quí tốt đẹp
hơn kiếp sống cũa vừa chấm dứt thì chính là tại
ta."
Tiền kiếp
" Tôi trải mình nằm dài trên bãi biển
Và thả hồn thơ mộng một không gian bé nhỏ.
Tôi nghe những lượn sóng to tan vỡ và gầm thét.
Mặt trời ở ngay trước mặt tôi.
"Những ngón tay đen trên bàn tay dã dượi của tôi
Lười biếng nô đùa với cát xám,
Những lượn sóng vập vồ trườn lên bãi.
Những lượn sóng rút về biển cả
vang động và vui vẻ ,
"Những hột cát vừa trong, vừa mịn,
Ấm áp nằm trên tay tôi ,
Cũng như những người bé nhỏ mà tôi thấy
Ngồi đó đây trên bãi biển.
"Những hột cát nhỏ, rực rỡ và mịn màng,
Lọt xuyên qua kẽ tay tôi ;
Mặt trời rọi xuống trên tất cả ...
Và tôi đã bắt đầu mơ tưởng:
"Tất cả những cái ấy trước kia là thế nào ?
Bao nhiêu năm đã tôi qua, xa xôi trong dĩ vãng
Tôi đã nằm trên bãi biển nào mà nay đã lãng quên,
Cũng như tôi đã nằm đây hôm nay .
"Những lượn thủy triều đã vươn lên.
Và chiếu sáng bãi cát cũng như hôm nay .
Và trong lòng bàn tay thuộc về thời thượng cổ của tôi
Những hột cát vẫn ấm áp và mịn màng.
"Tôi đã quên hẳn từ đâu tôi đến đây,
hay quê nhà của tôi là thế nào.
Hay lúc ấy tôi gọi cái biển gầm thét vang động này.
Bằng những danh từ quái lạ và man rợ nào.
"Chỉ biết rằng lúc ấy mặt trời đã rọi sáng
xuống
cũng như rọi sáng hôm nay,
và những hột cát mịn màng
nằm trên ngón tay dài thượt và đen xám của tôi. [2]