goài
Danh và Sắc, phần tâm linh và phần vật chất, là hai thành
phần cấu tạo chúng sanh, Phật Giáo không chấp nhận có
một linh hồn vĩnh cửu hay một bản ngã trường tồn mà
con người đã thọ lãnh một cách bí ẩn, từ một nguồn
gốc cũng không kém bí ẩn.
Một linh hồn mà trường cửu tất nhiên phải bất
biến, trước cũng như sau. Nếu linh hồn mà người ta giả
định là phần tinh túy của con người là trường tồn vĩnh
cửu thì linh hồn không thể tái sanh hay hoại diệt, mà ta
không thể giải thích vì sao "từ lúc sơ khởi, linh
hồn nầy lại khác biệt rất xa với linh hồn kia."
Để chứng minh rằng có những lạc thú vô cùng tận trên
một thiên đàng vĩnh cửu và cảnh khổ đau vô cùng tận dưới
một địa ngục trường tồn, tức nhiên phải chủ trương
có một linh hồn trường cửu.
Bertrand Russell viết :
"Ta phải nói rằng sự phân biệt cũ kỹ giữa linh
hồn và thể xác đã tiêu tan như mây khói, bởi vì vật
chất đã mất tính chất cứng rắn của thể đặc mà tâm
cũng mất tính chất tinh thần của nó. Tâm lý học vừa
bắt đầu trở thành một ngành khoa học. Trong tình trạng
hiện hữu của tâm lý học, sự tin tưởng nơi một cái gì
trường tồn vĩnh cửu không có cái nào đòi hỏi khoa học
tán trợ" [1].
Theo nhà học giả uyên bác, tác giả quyển "The Riddle
of the Universe":
"Biện chứng Thần Linh Học chủ trương có một đấng
Tạo Hóa thổi vào con người một linh hồn bất diệt (thường
được xem là một phần của Thần Linh). Đó là một câu
truyện thần thoại. Biện chứng Vũ Trụ Luận cho rằng
"trật tự luân lý của thế gian" đòi hỏi phải có
một linh hồn trường tồn bất diệt. Đó là giáo điều vô
căn cứ. Biện chứng Chung Quả Luận chủ trương rằng do
sự tiến triển không ngừng của con người để cải
thiện vận mạng mình, những khuyết điểm của linh hồn phàm
tục phải được cải tiến mãi mãi trong đời sống và sau
kiếp sống. Đó là một lối hiểu sai lầm của thuyết sinh
vật đồng nhân (anthropomorphism) cho rằng tất cả những
sinh vật đều có hành động và tư tưởng như người. Theo
biện chứng Đạo Đức Luận, những khuyết điểm và
những tham vọng chưa được thỏa mãn trong đời sống
phải được bổ khuyết và "đền bù một cách công bình
và vĩnh viễn" sau kiếp sống. Đó chỉ là một điều
mong ước cuồng nhiệt. Biện chứng Nhân Chủng Luận cho
rằng sự tin tưởng nơi tánh cách bất diệt của linh hồn
cũng như sự tin tưởng nơi một đấng Tạo Hóa là chân lý
cố hữu trong toàn thế nhân loại. Đó hiển nhiên là một
sai lầm. Biện chứng Bản Thể Luận chủ trương rằng linh
hồn là một thực thể đơn giản, vô hình, và bất khả phân,
tất không thể bị liên quan đến sự vong hoại do cái
chết gây ra. Điều nầy căn cứ trên quan niệm sai lạc về
hiện tượng tâm linh. Đó là ảo mộng của Duy thần luận.
Tất cả những biện chứng kể trên cũng như tất cả
những giả thuyết tương tợ về bản ngã đã lâm vào tình
trạng nguy ngập trong vòng mười năm nay và đã bị khoa
học chỉ trích và bác bỏ hoàn toàn." [2]
-- Nếu không có chi dưới hình thức
linh hồn, chuyển từ kiếp sống nầy sang kiếp sống khác
thì cái gì được tái sanh?
Hỏi như vậy đương nhiên là chấp nhận có một cái gì
tái sanh.
Cách đây vài thế kỷ có lập luận "Cogito, ergo
sum", "tôi tư tưởng, tức là có tôi". Đúng như
vậy. Tuy nhiên, trước tiên phải chứng minh rằng có một cái
"tôi", đang tư tưởng.
Chúng ta nói rằng mặt trời mọc ở phương Đông và
lặn ở phương Tây, mặc dầu ta biết rằng thật sự không
phải mặt trời mọc lên và lặn xuống mà chính là quả địa
cầu quay. Chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng ta không thể gõ
hai lần đúng y vào một chỗ, mặc dầu bề ngoài là như
vậy. Tất cả đều biến đổi rất nhanh chóng. Không thể
có hai khoảnh khắc giống hệt nhau.
Người Phật tử đồng ý với Bertrand Russell khi ông nói:
"Hiển nhiên có vài lý do để chủ trương rằng cái
"Tôi" ngày hôm nay và cái "Tôi" ngày hôm qua
là một; và để lấy một thí dụ hiển nhiên hơn nữa,
nếu cùng một lúc, tôi thấy một người và nghe người
ấy nói ắt, có cảm giác rằng cái "Tôi" đang nghe
và cái "Tôi" thấy là một." [3]
Cho đến những ngày gần đây các khoa học gia còn tìm nơi
tính cách bất khả phân tán và bất khả diệt của nguyên
tử.
"Với đầy đủ lý lẽ, các nhà vật lý học đã phân
tán hạt nguyên tử ấy ra từng loạt những thành phần
nhỏ. Cũng vì những lý do không kém chánh đáng, các nhà tâm
lý khám phá rằng tâm không phải là một thực thể đồng
nhất với cái gì liên tục trường tồn mà là một loạt
những yếu tố kết hợp với nhau trong những liên quan mật
thiết nào. Do đó, vấn đề trường tồn bất diệt trở thành
câu hỏi rằng sau khi thể xác kia chết thì những yếu tố
của tâm và những yếu tố của thân có còn tiếp tục liên
quan mật thiết với nhau không?" [4]
Cũng như C. E. M. Joad viết trong quyển "The Meaning of
Life":
"Vật chất đã tan rã dưới chính mắt chúng ta. Nó
không còn ở thể đặc, không còn bền vững trường tồn,
không còn bị những định luật cưỡng chế quy định, và
quan trọng hơn tất cả, không còn được biết là gì."
Vậy, hình như cái được gọi là nguyên tử "có
thể bị phân tán và có thể bị tiêu diệt". Những điện
tử và dương tử cấu thành một nguyên tử "có thể
gặp nhau và tiêu diệt lẫn nhau". Trong lúc ấy, sự
bền vững của hai thành phần điện tử và dương tử,
chỉ tựa hồ như sự vững bền của một lượn sóng, không
có giới hạn chắc chắn, và luôn luôn nằm trong tiến trình
biến đổi liên tục, cả hai đều thay đổi hình thức và
vị trí."
Theo Đức Giám Mục Berkeley, cái được gọi nguyên tử là
một giả tưởng của siêu hình học và Ngài chủ trương có
một thực chất tinh thần gọi là linh hồn.
Sau khi tìm hiểu cái hồn, Hume viết như sau:
"Có vài triết gia tư tưởng rằng trong mỗi chập tư
tưởng chúng ta mật thiết ý thức cái gọi là "Ta"
và chúng ta cảm giác rằng cái "Ta" có thật, và
thật sự tồn tại. Các triết gia ấy, ngoài sự hiển nhiên
của mọi luận chứng, cũng quả quyết rằng cái
"Ta" hoàn toàn không biến đổi và không thể phân
chia.
"Riêng về phần tôi, khi xâm nhập mật thiết vào cái
mà tôi gọi là "Tôi" thì luôn luôn tôi vấp phải
một cảm giác đặc biệt như nóng hay lạnh, sáng hay tối,
thương hay ghét, vui hoặc buồn. Tôi chưa từng bắt gặp cái
"Tôi", ngoài những cảm giác ấy, và chưa hề chiêm
nghiệm được cái gì ngoài cảm giác ..." [5]
Bergson nói:
"Tất cả mọi tâm thức chỉ tồn tại trong thời
gian sinh hoạt và một trạng thái tâm, nếu không biến đổi
thì không còn là trạng thái nữa. Trạng thái tâm là một
sự biến đổi không ngừng. Nếu sự biến đổi ngưng là
trạng thái tâm cũng ngưng. Trạng thái tâm chẳng qua là sự
biến đổi."
Theo nhà tâm lý học trứ danh Watson:
"Chưa có ai từng sờ đụng một linh hồn, hay nhìn
thấy linh hồn trong một ống thí nghiệm, hay bằng cách gì
khác, để tiếp xúc với linh hồn, như đã từng tiếp xúc
với các vật khác trong phòng thí nghiệm. Tuy nhiên, ngờ
vực sự hiện hữu của linh hồn được coi là phản tôn giáo
và có thể bị rơi đầu. Cho đến ngày nay, người có địa
vị ưu tú cũng không dám nêu vấn đề ấy lên." [6]
Đề cập đến vấn đề linh hồn, Giáo sư James viết:
"Cho đến nay, để giải thích những sự kiện thật
sự có thể chứng minh được về kinh nghiệm của thân thì
thuyết linh hồn là hoàn toàn vô ích. Cho đến nay không ai có
thể bị cưỡng bách phải chấp nhận thuyết ấy vì những
lý do khoa học.
"Cái Ta (dùng như một túc từ) là sự kếp hợp do
kinh nghiệm, cấu tạo với sự vật đã được biết một cách
khách quan. Vậy cái Ta (thường dùng như một chủ từ)
biết được sự vật ấy không thể là một sự kết hợp.
Không thể dùng cái Ta ấy trong những nhu cầu tâm lý và xem
nó như một thựa thể siêu hình không biến đổi, một linh
hồn trường tồn bất biến.
Cũng như không thể xem nó như một nguyên lý, một bản
ngã siêu việt vượt ra ngoài thời gian. Cái "Ta"
chỉ là một tư tưởng biến đổi từng chập. Không một tư
tưởng nào giống chập tư tưởng trước kế đó, nhưng luôn
luôn thuận ưng theo chập tư tưởng trước để cùng chung
hợp lại thành một tư tưởng riêng biệt." [7]
Và giáo sư James kết luận đoạn sách thích thú về linh
hồn như sau: "Chính cái tư tưởng là người tư tưởng"
Và đó là dư âm của những lời mà Đức Phật đã dạy
từ hơn 2500 trước, trong vùng thung lũng sông Hằng (Ganges).
Phật Giáo dạy một thứ tâm lý học trong đó không có
linh hồn. Phật Giáo chủ trương rằng chúng ta là sự cấu
hợp của hai thành phần Danh và Sắc (nama-rupa), phần tâm
linh và phần vật chất, và hai thành phần nầy ở trong
trạng thái luôn luôn biến đổi như một dòng suối trường
lưu bất tức.
Từ ngàn xưa, những nhà hiền triết Ấn Độ cũng có tin
một nguyên tử bất khả phân tán gọi là Paramanu. Theo quan
niệm thời bấy giờ, 36 Paramanu hợp thành một Anu; 36 Anu
hợp thành một Tajjari; 36 Tajjari hợp thành một Ratharenu.
Một hạt bụi rất nhỏ mà ta thấy vởn vơ trong làn ánh sáng,
gọi là Ratharenu. Vậy, nếu chia hột bụi kia làm 46.656
phần thì Paramanu là một phần nhỏ ấy (1/46.656).
Theo quan niệm thời bấy giờ thì Paramanu là đơn vị vi
tế nhất của vật chất, không thể phân chia được nữa.
Với nhãn quang siêu phàm, Đức Phật phân tách Paramanu và
tuyên bố rằng Paramanu gồm có những năng lực tương quan
gọi là Paramattha, hay là thành phần chánh yếu của vật
chất .
Những Paramattha ấy là Đất (Pathavi), Nước (Apo), Lửa
(Tejo), và Gió (Vayo), gọi là Tứ Đại.
Đất (Pathavi) là thành phần có đặc tính duỗi ra, thể
chất của phần vật chất. Nếu không có thành phần đất
(Pathavi), thì một vật thể không thể chiếm không gian. Hai
tánh cách tương đối, cứng và mềm, là điều kiện của
thành phần ấy.
Nước (Apo) là thành phần có đặc tính làm dính liền
lại. Do ngũ quan, ta có thể tiếp xúc với thành phần Đất
(Pathavi), nhưng không thể dùng mắt, tai, mũi, lưỡi và thân
để tiếp xúc với thành phần Nước (Apo) trong vật chất.
Chính thành phần nầy làm cho những phân tử rời rạc của
vật thể dính liền lại và cho ta ý niệm hình thể. Khi
một vật ở thể đặc chảy ra thì thành phần Nước (Apo)
trong chất lỏng ấy trở nên trội hơn. Khi một vật ở
thể đặc bị phân tán thành bụi, trong mỗi hột bụi tí
ti cũng có chứa thành phần Nước. Hai Paramattha, Đất
(Pathavi) và Nước (Apo), trong vật chất liên quan với nhau
thật là mật thiết. Khi thành phần Nước (Apo), có đặc tánh
làm dính liền, tiêu tan, thì thành phần Đất (Pathavi), có
đặc tính duỗi ra cũng không còn.
Lửa (Tejo) là thành phần nóng trong vật chất. Lạnh cũng
là một hình thức của Lửa (Tejo). Cả nóng lẫn lạnh đều
nằm trong thành phần Lửa (Tejo) của vật chất và cả hai
đều có năng lực làm cho vật chất trở nên chín mùi, hay
nói cách khác tạo sinh lực cho vật chất. Vật chất được
tồn tại hay bị hư hoại đều do thành phần Lửa. Trái
với ba thành phần khác trong Tứ Đại, Lửa (Tejo), cũng
gọi là Utu, có năng lực làm cho vật chất tự mình hồi
sinh.
Gió (Vayo) là thành phần di động. Chính thành phần Gió
(Vayo) trong vật chất tạo nên sự vận chuyển và được
xem là năng lực làm phát sanh hơi nóng.
Sự di động và nhiệt lực trong phạm vi vật chất cũng
tương đương như tâm và nghiệp trong phạm vi tinh thần.
Tứ Đại, Đất-Nước-Lửa-Gió, là những đơn vị căn
bản của vật chất, luôn luôn pha lẫn với bốn chuyển hóa
là màu sắc (vanna), hương (gandha), vị (rasa), và bản chất
dinh dưỡng (oja).
Tứ Đại và bốn chuyển hóa luôn luôn dính liền nhau và
liên quan với nhau rất mật thiết. Nhưng trong một loại
vật chất, thành phần nầy có thể trội hơn thành phần khác.
Thí dụ như trong đất, thành phần Đất (Pathavi) trội hơn
ba thành phần kia. Trong nước thì thành phần Nước (Apo) trôi
hơn. Trong lửa thì thành phần Lửa (Teio) và trong không khí
thì thành phần Gió (Vajo) trội hơn.
Như vậy, vật chất gồm có những năng lực và những đặc
tính trong trạng thái liên tục biến đổi, luôn luôn trôi
chảy như một dòng suối. Theo Phật Giáo vật chất chỉ
tồn tại trong thời gian bằng 17 lần một chập tư tưởng.[8]
Tâm, thành phần quan trọng hơn trong guồng máy phức tạp
của con người gồm có 52 trạng thái tâm (tâm sở) luôn luôn
biến đổi. Thọ (vedana), hay cảm giác, là một. Tưởng
(sanna), hay tri giác, là một tâm sở khác. 50 tâm sở còn
lại gọi chung là Hành (samkhara), hay là những sinh hoạt có
tác ý của tâm. Trong 52 trạng thái tâm, hay tâmn sở, tác ý
(cetana), hay "ý muốn làm" là quan trọng nhất. Tất
cả tâm sở đều phát sanh trong thức (vinnana), hay Tâm.
Theo triết học Phật Giáo, không có một khoảnh khắc nào
mà tâm có thể trống rỗng, nghĩa là không lúc nào không có
một loại tâm duyên theo một đối tượng vật chất hay
tinh thần. Thời gian tồn tại của một loại tâm như vật
gọi là chập tư tưởng. Khi một chập tư tưởng diệt,
tức khắc có một chập mới phát sanh. Như vậy, những
chập tư tưởng liên tục nối tiếp, và thời gian tồn
tại của một chập tư tưởng thật ngắn, khó mà quan
niệm được.
Mỗi chập tư tưởng gồm ba giai đoạn (khana): Sanh
(uppada), Trụ (thiti), và Diệt (bhanga).
Ngay khi một tư tưởng vừa qua giai đoạn diệt (bhanga),
tức khắc giai đoạn sanh (uppada) của chập tư tưởng kế
khởi lên. Trong tiến trình luôn luôn biến đổi của đời
sống, mỗi chập tư tưởng khi diệt, chuyển tất cả năng
lực và tất cả những cảm giác thâu nhận cho chập tư tưởng
kế tiếp. Mỗi chập tư tưởng mới gồm những tiềm năng
do chập tư tưởng trước trao lại và thêm vào đó còn có
cài gì khác nữa. Như vậy có sự luân lưu không ngừng
của tâm. Luồng tâm như một dòng suối luôn luôn trôi
chảy. Chập tư tưởng mới không hoàn toàn giống chập tư
tưởng trước bởi vì thành phần cấu tạo đã đổi mới,
mà cũng không tuyệt đối là khác bởi vì cả hai cùng nằm
trong một luồng sống, một dòng đời. Không có chúng sanh
đồng nhất nhưng có sự đồng nhất trong tiến trình đời
sống của chúng sanh.
Không nên nhận định rằng tâm là một chuỗi dài những
chập tư tưởng riêng biệt, kế tiếp nối liền với nhau,
như một sợi dây xích, hay một đoàn những toa xe lửa nối
liền. Trái lại, "nó liên tục trôi chảy như một dòng
sông, luôn luôn tiếp nhận dồi dào những thành phần mới,
từ những chi lưu ngũ quan và luôn luôn cung cấp cho thế
gian chung quanh những tư tưởng mới thâu nhập trên đường
đời [9]".
Trong chuỗi dài những trạng thái tâm, có sự kề nhau
nối tiếp mà không có trạng thái chập chồng cái nầy trên
cái kia như có người lầm tưởng. Không có chập tư tưởng
đã qua mà còn trở lại. Không có chập tư tưởng hoàn toàn
giống hệt chập qua. Những trạng thái ấy luôn luôn biến
đổi, không thể tồn tại trong hai khoảnh khắc kế tiếp.
Hạng phàm nhân còn lúng túng trong ảo mộng, lầm nhận sự
liên tục giả mạo bên ngoài ấy là cái gì vững bền, vĩnh
viễn, không đổi thay, và còn đi xa đến đổi đưa một
linh hồn trường tồn bất biến (giả định là người
vừa hành động vừa quan sát hành động) vào trong cái tâm
luôn luôn biến đổi.
Bốn loại hiện tượng tâm linh, hợp với một hiện tượng
vật lý, tạo nên Ngũ Uẩn (pancakkhandha), sự kết hợp vô cùng
phức tạp của năm thành phần cấu tạo một chúng sanh.
Mỗi cá nhân là sự phối hợp của năm uẩn ấy.
Nhìn ra đại dương ta thấy một biển nước bao la,
những thành phần bé nhỏ trong biển cả là sự kết hợp
của nhiều giọt nước li ti. Trên bờ biển, cát nhiều vô
số kể, nhưng ta chỉ thấy một thảm cát trãi dài trên bãi.
Những lượn sóng kế tiếp nhô lên rồi tan ra trên mặt cát,
nhưng một cách chính xác, không có một lượn sóng đồng
nhất, bất biến, từ đáy sâu của biển cả nhô lên để
rồi tan mất sự đồng nhất ấy trên bãi cát.
Xem xi-nê, ta thấy cảnh vật di động trên màn ảnh, nhưng
thực ra chỉ có những hình ảnh riêng biệt, liên tục
tiếp diễn theo một tốc độ nào và cho ta cảm giác đang
nhìn một hoạt cảnh liên tục.
Ta không thể nói hương hoa tỏa ra từ tai hoa, nhụy hoa,
hay từ sắc màu của hoa, nhưng mùi thơm là của hoa.
Cùng một thế ấy mỗi cá nhân là sự kết hợp của năm
uẩn.
Toàn thể tiến trình của những hiện tượng tâm-vật-lý
ấy luôn luôn trở thành rồi tan biến, sanh rồi diệt. Đôi
khi Đức Phật dùng danh từ thông thường mà gọi tiến trình
ấy là "Ta" hay atta. Tuy nhiên, đó chỉ là một
tiến trình luôn luôn biến đổi chớ không phải là một
thực thể trường tồn bất biến.
Phật Giáo không hoàn toàn phủ nhận sự hiện hữu của
một cá tính theo nghĩa thông thường của nó. Phật Giáo
chỉ phủ nhận - trong định nghĩa cùng tột (Paramatha
Saccena, Chân đế) - một chúng sanh bất biến, một thực
thể vĩnh cửu, chớ không phủ nhận có sự liên tục trong
tiến trình.
Danh từ triết học Phật Giáo gọi một cá nhân là
Santati, một sự trôi chảy, một triều lưu, hay sự liên
tục. Dòng triều lưu bất tức hay sự liên tục không
ngừng ấy của hiện tượng tâm-vật-lý - do nghiệp lực
tạo điều kiện - đã bắt nguồn từ quá khứ xa xôi mà ta
không thể quan niệm, và sẽ còn liên tục diễn tiến trong
tương lai vô tận, ngoại trừ trường hợp ta áp dụng Bát
Chánh Đạo một cách đầy đủ và đúng mức.
Chính dòng triều lưu liên tục của hiện tượng tâm-vật-lý
ất là cái mà các hệ thống tín ngưỡng khác gọi là cái
"Ta" vĩnh cửu hay cái "linh hồn" trường
tồn.
-- Nếu không có linh hồn, coi như một
thực thể đơn thuần, không biến đổi, thì cái gì tái
sanh?
Theo Phật Giáo, sanh là sự kết hợp của những uẩn
(khandas) hay nhóm, hợp thể (khandhanam patubhavo).
Cũng như sự tái sanh của một trạng thái vật chất
phải do trạng thái trước làm nguyên nhân và tạo điều
kiện, những hiện tượng tâm-vật-lý nầy cũng phát hiện
do những nguyên nhân từ trước khi sanh làm điều kiện.
Tiến trình biến đổi hiện tại là kết quả của lòng
khao khát ham muốn duyên theo sự biến đổi trong một kiếp
sống trước, và bản năng ham muốn tự nhiên trong hiện
tại sẽ tạo điều kiện cho sự tái sanh sắp đến. Trong
một kiếp sống, tiến trình của đời sống có thể diễn
tiến mà không cần có một thực thể trường tồn di
chuyển từ chập tư tưởng nầy sang chập tư tưởng kế,
thì một loạt tiến trình cũng có thể đặc tính mà không
cần có một cái gì khác chuyển từ kiếp nầy sang kiếp khác.
Thuyết tái sanh của Phật Giáo không phải thuyết chuyển
sinh linh hồn, hiểu như có sự di chuyển của một linh hồn
từ thân xác nầy đến cơ thể vật chất khác. Trong sách
vua Milinda Vấn Đạo (Milinda Panha) và Thanh Tịnh Đạo
(Visuddhi Magga), Đại Đức Nagasena và Đại Đức Buddhagosa đã
dùng nhiều truyện ngụ ngôn để giúp ta lãnh hội dễ dàng
định luật tái sanh của Phật Giáo.
Câu truyện mồi lửa rất là rõ ràng. Đời sống xem như
một ngọn lửa, và hiện tượng tái sanh như sự mồi lửa
từ cây đèn nầy sang cây đèn khác. Ngọn lửa của đời
sống liên tục tiếp diễn, mặc dầu có sự gián đoạn
bộc lộ ra bên ngoài mà ta gọi là cái chết.
Vua Milinda hỏi Đại Đức Nagasena:
"Kính bạch Đại Đức, phải chăng có sự tái sanh mà
không có gì chuyển sinh thân nầy đến xác thân khác?"
- Đúng như vậy, sự tái sanh diễn tiến không cần có cái
gì chuyển sinh thân nầy đến thể xác khác?"
- Xin Ngài ban cho một thí dụ.
- Tâu Đại Vương, thí dụ người nọ dùng lửa của cây
đèn nầy để mồi cây đèn kia. Có phải ngọn lửa cây đèn
nầy chuyển sang cây đèn kia không ?
- Kính bạch Ngài, không phải vậy.
- Đúng thế, tâu Đại Vương, tái sanh diễn tiến không
cần có sự di chuyển của một cái gì từ nơi nầy đến nơi
khác.
- Kính bạch Đại Đức, xin Ngài ban cho một thí dụ khác.
- Tâu Đại Vương, Ngài còn nhớ không, thửa nhỏ đi
học, ông thầy dạy làm thơ đọc cho Ngài nghe vài vần thơ
để Ngài đọc theo đến thuộc lòng.
- Bạch Ngài, có như vậy.
- Vậy, tâu Đại Vương, có phải lời thơ chuyển từ ông
thầy sang trí nhớ của Đại Vương không?
- Bạch Ngài, không.
- Cùng một thế ấy, tâu Đại Vương, hiện tượng tái
sanh diễn tiến mà không cần có cái gì chuyển từ chổ
nầy sang qua nơi khác.
Và Đức vua Milinda hỏi tiếp:
- Kính Bạch Đại Đức, vậy thì cái gì tiếp nối từ
kiếp nầy sang kiếp khác?
- Tâu Đại Vương, chính Danh và Sắc, phần tâm linh và
phần vật chất, cũng được sanh ra trong kiếp sống kế.
- Có phải cũng tâm và thể xác trước được di chuyển
đến và sanh trở lại trong kiếp sống sau không?
-Tâu Đại Vương, không phải chính tâm và thể xác trong
kiếp trước được được sanh trở lại trong kiếp sống
nầy. Tuy nhiên, Danh và Sắc ở kiếp trước đã hành động,
gây nhân , tạo nghiệp - thiện hay ác - và tùy thuộc nơi
nghiệp ấy, tâm và thể xác được sanh ra trong kiếp nầy.
- Kính bạch Đại Đức, nếu không phải chính tâm và thân
trước được sanh trở lại trong kiếp kế thì ta có thể
tránh khỏi quả báo của những hành động bất thiện không?
- Nếu không có sự tái sanh thì ta không còn trả quả
của những hành động bất thiện, nhưng tâu Đại Vương,
ta đã tái sanh trong một kiếp sống khác thì tức nhiên
phải còn chịu hậu quả của những hành động quá khứ.
- Kính thỉnh Đại Đức cho một thí dụ.
- Tâu Đại Vương, cũng như người nọ bẻ trái xoài
của một người khác, bị chủ bắt, nạp cho vua và thưa:
"Tâu Đại Vương, người nầy đã lấy của tôi một trái
xoài", và người nọ trả lời: "Tâu Đại Vương, tôi
không có lấy trái xoài của ông ấy. Trái xoài mà tôi bẻ
không phải là trái mà ông ấy đã trồng ra cây xoài. Như
vậy tôi không đáng bị trừng phạt." Vậy, Tâu Đại Vương,
người lấy trái xoài có đáng bị phạt không?
- Kính bạch Đại Đức, dĩ nhiên người ấy đáng tội.
-Vì lẽ gì?
- Bạch Ngài, dầu có viện lẽ nào để chạy tôi, người
ấy cũng đáng bị phạt vì trài xoài mà người ấy bẻ là
do xoài của ông kia trồng ra cây.
- Cùng một thế ấy, Tâu Đại Vương, với tâm và thân
nầy ta làm một điều gì - thiện hay ác - và do hành động
ấy, một tâm và thân khác được sanh ra trong kiếp mới. Như
,vậy, ta không tránh khỏi sự ràng buộc của nghiệp quá
khứ. [10]
Đại Đức Buddhaghosa giải thích điểm phức tạp nầy
bằng những thí dụ như tiếng dội, ánh sáng, con dấu và
sự phản chiếu của mặt gương.
Một văn hào hiện đại cũng giải thích tiến trình
tử-sanh ấy bằng một loạt những quả bi da. [11]
"Thí dụ như, nếu một quả bi da lăn đến đụng
một quả khác đang ở yên một chổ, thì quả lăn tới ngưng
lại và quả bị đụng lại lăn. Không phải quả banh lăn
chuyển sang quả banh bị đụng. Nó vẫn còn nằm lại phía
sau, nó chết. Nhưng ta không thể phủ nhận rằng chính sự
di chuyển của nó, sức xung kích của nó, cái kết quả dĩ
nhiên, hay cái nghiệp lực của quả banh trước phát hiện
trong quả banh kế, chớ không phải một chuyển động mới
khác được tạo ra."
Cùng một lối ấy - để dùng những danh từ thông thường
- xác thân chết, và nghiệp lực tái sanh trong một cơ thể
khác mà không cần có cái gì di chuyển từ kiếp sống nầy
sang kiếp khác. Chúng sanh mới được sanh ra, không thể hoàn
toàn là một, nhưng cũng không tuyệt đối khác hẳn với chúng
sanh vừa chết, bởi vì cả hai cùng nằm trong một luồng
nghiệp. chỉ có sự liên tục của dòng đời, triền miên
thay đổi, tiếp diễn trong một thể xác mới, bất di bất
dịch, chuyển sang từ thể xác nầy sang thân khác.
Chú thích:
[1] Religion and Science, trang 132.
[2] Bertrand Russell, The Riddle of the Universe, trang 166.
[3] Religion and Science, trang 132.
[4] Religion and Science, trang 166.
[5] William James, Principles of Psychology, trang 351.
[6] Watson, Behaviourism, trang 4.
[7] Principles of Psychology, trang 215.
[8] Theo các nhà chú giải kinh điển, nếu chia thời gian
của một cái nhoáng ra làm một triệu phần thì thời gian
của một chập tư tưởng còn ngắn hơn là một phần
triệu của thời gian một cái nhoáng.
[9] Xem Compendium of Philosophy - Introduction, trang 12.
[10] Xem Warren, Budhism in Translations, trang 234-235.
[11] Xem sách "Buddha and the Gospel of Budhism", trang
106, của tác giả Dr. Ananda Coomasvami.