[05] 
    Con Ðường Thoát Khổ - Bát
    Chánh Ðạo 
    (III)
    -oOo- 
    Chánh Tinh Tấn (Samma Vayama)
    Chánh tinh tấn là cố
    gắng chân chánh, nổ lực kiểm soát, thanh lọc tâm. Ðây là pháp tu thứ
    sáu trong Bát Chánh Ðạo thuộc nhóm Ðịnh. Con người quá bận rộn luôn sống
    trong lo âu và tâm thần căng thẳng, không được bình an. Thông thường,
    họ lại tìm bình an từ bên ngoài thay vì từ nội tâm. Khoa học càng
    ngày càng phát triển mang nhiều hứa hẹn tạo cõi nầy thành thiên đàng
    nhưng người không kềm chế được tâm vẫn không tìm thấy an lạc hạnh
    phúc. 
    Con người chịu ảnh hưởng tham-sân-si ghi
    đậm trong ký ức từ nhiều kiếp nên làm ác dể, làm thiện
    thật khó. Phật dạy: "Tất cả đang bị lửa thiêu đốt. Tất cả là gì? Mắt
    đang bị thiêu đốt. Vật thấy đang bị thiêu đốt. Nhãn thức đang bị thiêu
    đốt. Thọ cảm khoái lạc hay đau khổ cũng đang bị thiêu đốt. Cái gì
    thiêu đốt nó? lửa tham, lửa sân, lửa si đang thiêu đốt không ngừng". 
    Tham ái (tanha) là ngọn lửa khốc liệt
    đốt cháy chúng sanh. Chính tham ái làm con người mù tối vô minh, phát sanh
    sân hận vào tạo khổ não. Không phải bom nguyên tử tàn phá con người, chính
    tham-sân-si tàn phá con người. Vì tham, con người chế bom nguyên tử
    để chiến thắng. Vì sân, con người tiêu diệt kẻ khác. Vì vô minh,
    con người chinh phục và tiêu diệt. Nếu không cố gắng tiêu diệt
    tham-sân-si, con người sẽ trở thành nô lệ của nó. 
    Khi nào còn dầu chế vào, lửa sẽ còn
    cháy. Sự ham muốn lục dục là nhiêu liệu nuôi dưỡng ngọn lửa
    tham-sân-si. Các căn luôn cần đến các thức ăn như mắt cần cảnh đẹp,
    tai thích lời đường mật, miệng thích ăn ngon. Nếu ta dùng thức ăn tam
    độc; tất nhiên tâm không an lạc; ngược lại, thức ăn không độc hại sẽ làm
    tâm ta thanh tịnh. Người dể nuôi sẽ bị lôi cuốn theo lục dục ngũ trần
    và sẽ luôn luôn vướng mắc trong phiền não, bất toại nguyện. Vì vậy,
    muốn tiến hóa trên đường tu tập, tìm an vui, ta cần tinh tấn kiểm
    soát tâm. Kinh Pháp Cú dạy: 
    
      Ai sống theo ái dục 
      Không nhiếp hộ các căn 
      Ăn uống thiểu tiết độ 
      Biếng nhác, chẳng tinh cần 
      Dễ bị ma nhiếp phục 
      Như gió lay cây yếu. 
     
    Con người và súc sanh cùng có các bản năng
    ăn, ngủ, thỏa mản nhục dục. Con người khác với súc sanh ở khả năng vượt
    lên trên bản năng đó để phát triển tâm linh. Do đó, Ðức Phật luôn
    nhắc nhở đốc thúc đệ tử tinh tấn kiểm soát thân tâm để trở
    nên nguồn hạnh phúc cho mình và tất cả chúng sinh. 
    Tinh tấn chỉ về sự dũng mãnh tinh thần,
    không phải sức mạnh thể xác. Người con Phật luôn trì chí nổ lực tinh
    tấn, không từ bỏ hy vọng. Bồ Tát là bậc tinh tấn không ngừng nghỉ trong
    vô số kiếp để đạt đến đạo quả vô thượng. Ðức Phật nhấn
    mạnh đến chánh tinh tấn trong Bát Chánh Ðạo vì ngài nhận biết chỉ
    có con đường nầy giúp chúng sanh giải thoát. Ngài là đạo sư chỉ con
    đường giác ngộ. Chỉ có con người tự tu tập, tự giải thoát. Tinh tấn là
    đặc tính không yếm thế bi quan, là đặc tính của người chiến sĩ
    dũng mãnh. 
    Ví như nhà nông, phải dọn dẹp cỏ hoang,
    trồng hột giống và bỏ phân bón, người tu Phật phải kiểm soát tâm,
    diệt trừ tư tưởng bất thiện và nuôi dưởng tư tưởng thiện.
    Chánh tinh tấn gồm bốn nổ lực chân chánh (Tứ Chánh Cần): ngăn ngừa, diệt
    trừ, phát sanh, tiếp tục. 
    
      Ðiều ác chưa phát sanh, cố gắng không
      cho phát sanh; 
      Ðiều ác đã phát sanh, cố gắng diệt trừ; 
      Ðiều thiện chưa phát sanh, cố gắng phát sanh; 
      Ðiều thiện đã phát sanh, cố gắng phát triển. 
     
    Tất cả điều ác phát sanh từ tâm tham,
    tâm sân và tâm si. Nghịch lại, điều thiện phát sanh từ tâm không
    tham, không sân và không si. Mục đích thực hành Tứ Chánh Cần là giúp
    thiền định dể dàng, là tạo điều kiện đạt đến tâm
    định. 
    Chánh tinh tấn thuộc nhóm Ðịnh vì chánh
    tinh tấn, chánh định và chánh niệm liên hệ chặc chẻ với nhau. Nếu
    không có chánh tinh tấn, hành giả sẽ gặp nhiều chướng ngại tu tập. Chánh
    tinh tấn diệt trừ tư tưởng thấp hèn là chướng ngại của tâm an trụ,
    đồng thời giúp ta phát triển tâm thiện đưa đén trạng thái nhập
    định. 
    Lúc thiền định gặp nhiều chướng
    ngại như lười biếng, hôn trầm, dả dượi, là lúc ta áp dụng chánh tinh
    tấn: 
    
      Khi cần không nổ lực 
      Tuy trẻ mạnh nhưng lười 
      Chí tiêu trầm nhu nhược 
      Sao có trí ngộ đạo. 
     
    Thanh lọc chuyển hóa tâm không phải
    việc dể thành công trong một ngày một đêm. Muốn có cơ thể cường
    tráng, phải bỏ nhiều thời giờ luyện tập theo chương trình nhất định.
    Cùng thế đó, công cuộc tu tâm đòi hỏi cố gắng liên tục đều đặn
    lâu dài. 
    Chánh tinh tấn là nổ lực kiểm soát sáu
    căn không để tham-sân-si lôi cuốn. 
    Ðức Phật hỏi vị bà la môn: 
    - "Thầy của ông dạy kiểm soát các
    căn như thế nào? 
    - Thầy tôi dạy đừng nhìn, đừng nghe âm
    thanh, mầu sắc bên ngoài. 
    - Như vậy, người mù, người điếc
    đều không nghe, không thấy, đã kiểm soát các căn chưa? Pháp của ta
    là thấy và nghe, nhưng thấy và nghe với tâm xả, không có ý niệm
    thích hay không thích". 
    Khi thực hành kiểm soát tâm, ta không
    nên cố ép, phủ nhận tâm ác mỗi khi nó xuất hiện. Hãy để mọi
    việc tự nhiên. Hãy ghi nhận tư tưởng mỗi khi nó phát sanh, nhận xét
    tư tưởng thiện hoặc ác rồi để nó trôi qua. Càng cố ép, muốn gạt
    bỏ tư tưởng ác, ta sẽ càng vướng mắc vào đó hơn. Hãy bắc chước người
    tập bơi lội, người nầy hoạt động chân tay nhịp nhàng đều đặn, cơ
    thể sẽ nổi trên mặt nước. Nếu người nầy vùng vẫy tay chân mạnh quá
    hay không hoạt động tay chân, cơ thể sẽ chìm. Một thí dụ khác là
    trường hợp mất ngủ, ta càng cố gắng ép giấc ngủ, càng khó chịu hơn. 
    Trong việc kiểm soát tư tưởng ác, ta
    không nên quá căng thẳng, tâm sẽ trở nên khó chịu. Phật dạy ta nên theo con
    đường trung đạo, không buông trôi, không căng thẳng. Ngài lấy thí dụ
    người kỵ mã điều khiển cương ngựa. Khi ngựa chạy mau, ông ta
    kềm lại. Khi ngựa chạy chậm, ông ta thúc ngựa chạy cho mau. Do đó, ngựa
    giử được nhịp độ đều đặn. Trong một dịp khác. Ðức Phật dùng thí dụ
    dây đàn. Dây đàn căng quá sẽ đứt, dây đàn lỏng quá sẽ không phát ra âm
    thanh. 
    Bài pháp thứ 20 trong Trung Bộ Kinh dạy năm
    cách kiểm soát tâm trong khi thiền định như sau: 
    
      - Khi tư tưởng ác phát sanh từ tham-sân-si,
      hành giả hãy dùng tư tưởng thiện thay thế tư tưởng đó, như người
      thợ mộc dùng chân ghế tốt thay thế chân ghế đã gãy. 
      - Nếu tư tưởng ác còn phát sanh, hành
      giả nên nghĩ đến những hậu quả tai hại do tư tưởng ác gây ra, mà trở
      về với tư tưởng thiện. 
      - Nếu tư tưởng ác còn phát sanh, hành
      giả nên nghĩ đến điều nguy hại của nó, hành giả hảy bỏ qua đừng
      chú ý đến nó nữa. 
      - Nếu tư tưởng ác vẫn phát sanh dù
      hành giả không chú ý đến nó, hành giả nên nghĩ cách đốn bỏ gốc
      rể nó. 
      - Nếu tư tưởng ác vẫn phát sanh, hành
      giả nên cắn răng, đẩy lưỡi lên nấp vọng, chú tâm vào tư tưởng
      thiện, đẩy tư tưởng ác đi. 
     
    Áp dụng chánh tinh tấn không phải một ngày
    một giờ mà thành công. Cũng không phải chỉ áp dụng tinh tấn kiểm soát
    tâm trong lúc ngồi thiền. Trong sinh hoạt hằng ngày, ta nên cố gắng để
    ý, kiểm soát tư tưởng, lời nói, hành động mình tránh xa tam độc
    tham-sân-si. Ðó là cố gắng chân chánh. Một điểm thực tế là nên
    tránh xa những kẻ ác sống triền miên trong tham-sân-si, như tránh xa
    bệnh hủi đừng để truyền nhiễm đến tâm mình. 
    Gần đây y học đã chứng minh tâm có
    thể ảnh hưởng, tạo ra bệnh thể xác, ngược lại cũng có thể
    làm cho thân khỏe mạnh. Người lạc quan ít bệnh và mau bình phục hơn
    người bi quan. 
    Nói về ảnh hưởng của tâm đối với
    bệnh hoạn và chữa bệnh, ta cần hiểu rỏ công năng của lời kinh cầu
    an. Có người nghĩ nông cạn cho là Phật đã dạy có nghiệp tất có quả,
    phải tự lực giải thoát, nên họ cho việc đọc kinh cầu an là dị
    đoan vô ích. Hiểu như thế là một sai lầm lớn. Các xứ Phật giáo
    đều có phong tục độc kinh cầu an, cầu giải trừ các chướng ngại, mang
    lại sự bình an. Paritta tiếng Nam Phạn, Bắc Phạn là Paritrana, nghĩa đen là
    "bảo vệ". Ðây là những bài kinh tụng đọc lời Ðức Phật dạy
    có công năng bảo vệ và ngăn ngừa ác nghiệp trổ sanh. Tụng, đọc,
    nghe kinh Paritta với tâm hiểu biết về chân lý và lòng tin
    tưởng nơi giáo pháp và Ðức Phật, sẽ giúp cho hành giả mau bình phục,
    được hạnh phúc và vượt qua các trở ngại. Khi kinh Paritta được người giới
    đức tụng đọc, người nghe thuộc kinh và hiểu được lời kinh càng
    được nhiều phước báu an lành. Làm sao kinh Paritta có thể diệt
    trừ các điều tai ương? Kinh Phật có câu: 
    
      Dhamma have rakkhati dhammacarim 
      Nhờ oai lực chân lý bảo vệ hành giả tu Phật. 
     
    Ðọc kinh và nghe kinh với sự hiểu
    biết chân lý cũng là chánh tinh tấn, hoàn toàn không phải mê tín dị
    đoan. Thông thường bệnh phát sinh từ tam độc tham-sân-si nên lời kinh dạy
    diệt trừ tham-sân-si sẽ giúp hành giả tín tâm diệt trừ các bệnh
    hoạn tai ương. Không có linh dược nào quý cho bằng chánh pháp, vì chân
    lý có thể trị được bá bệnh thể xác và tinh thần giúp hành
    giả tránh đau khổ và đạt tới hạnh phúc. 
    -oOo- 
      
    Chánh Niệm (Samma Sati)
    Chánh niệm là để
    ý, cẩn thận, cảnh tỉnh chân chánh để bảo vệ tâm. Ðây là pháp
    tu thứ bảy trong Bát Chánh Ðạo thuộc nhóm Ðịnh. 
    Thông thường ta xem trên đời không có gì
    quan trọng hơn ta. Trong ta, tâm là phần quan trọng nhất vì tâm là chủ,
    tâm tạo tác tất cả. Ðã quý giá như vậy, ta phải biết bảo vệ
    tâm. Chánh niệm là phương pháp bảo vệ tâm hữu hiệu nhất: 
    
      Nếu yêu quý tự ngã 
      Phải khéo bảo vệ mình 
      Người trí trong ba canh 
      Phải luôn luôn tỉnh thức. 
     
    Chuyện kể một ngày nọ, hai thầy
    trò chuẩn bị hát xiệc. Ông thầy dùng miệng ngậm cây tre đưa lên
    trời để người học trò leo lên cây hát xiệc. Ông thầy dặn
    học trò: "con nhớ coi chừng, bảo vệ cho ta, ta sẽ coi chừng bảo
    vệ cho con; như vậy, tai nạn sẽ không xảy ra". Người học trò trả
    lời: "Thưa thầy, không phải vậy! Thầy tự bảo vệ cho thầy đừng
    để cây ngã. Con tự bảo vệ cho con bằng cách giử thăng bằng. Tai nạn
    sẽ không xảy ra". 
    Ðức Phật dạy: "Các con tự bảo vệ
    chính mình là các con đang bảo vệ cho người khác". 
    Nơi đây Ðức Phật nhấn mạnh đến chánh
    niệm. Nhẫn nhục, không hãm hại người khác, từ bi là các đức tánh vừa
    bảo vệ mình vừa bảo vệ người khác. Tất cả các đức tánh nầy chỉ
    có thể thực hành qua chánh niệm. Chánh niệm giúp hành giả đi
    đúng chánh pháp. 
    Một số người thiếu hiểu biết cho
    rằng người tu tiểu thừa thực hành chánh niệm là người ích kỷ vì
    chỉ nghĩ đến tự bảo vệ và tự giải thoát. Ðây là điểm vô cùng
    tế nhị trong đạo Phật. Tự bảo vệ mình có nghĩa nghiêm trì giới
    luật, tu tập để trau dồi thân-tâm. Người có chánh niệm là người có
    tâm vị tha, luôn kiểm soát thân-khẩu-ý của mình để không tổn
    hại đến chúng sanh. Một người thực hành chánh niệm tự bảo vệ
    thân-tâm không phải người ích kỷ. Ngược lại, khi tự bảo vệ
    thân-tâm, người ấy đang bảo vệ những người xung quanh, không để ai
    lo lắng vì mình, không để ai khổ não vì tham-sân-si của mình. 
    Ngoài ra kinh điển Phật Giáo Nguyên Thủy
    cũng vạch rỏ đường tu Bồ Tát là thực hành mười pháp ba-la-mật phục vụ
    chúng sanh trên đường tu tập giác ngộ trở thành bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác.
    Mười pháp ba-la-mật gồm có: bố thí (dana), trì giới (sila), xuất gia
    (nekkhamma), trí tuệ (panna), tinh tấn (viriya), nhẫn nại (khanti), chân thật
    (sacca), quyết định (adhitthana), tâm từ (metta), tâm xã (upekkha). Ðặc
    biệt hai đức tính từ bi và trí tuệ là kim chỉ nam cho bồ tát phục vụ
    chúng sanh, vừa cứu người vừa tự cứu mình. 
    Phật giáo có danh từ "chú ý"
    dịch từ chử appamada, đồng nghĩ với sati (niệm). Appamada là quan sát, chú
    ý liên tục để tránh làm điều ác và ghi nhớ điều lành.
    Người có chánh niệm là người tỉnh thức trong tất cả trường hợp, sẳn
    sàng đương đầu trước thần chết. Phật dạy: "Chú ý là con
    đường bất tử. Không chú ý là con đường chết. Hiểu như thế,
    bậc thánh nhân hoan hỷ trên con đường chánh niệm". 
    
      Tinh cần giữa phóng dật 
      Tỉnh thức giữa quân mê 
      Kẻ trí như tuấn mã 
      Bỏ sau con ngựa hèn. 
     
    Quả thật, kẻ trí là người tỉnh thức. Luôn
    giử chánh niệm và tinh tấn là điều kiện cần thiết để
    tránh làm ác và thực hành điều lành. Hãy kiểm soát liên tục tư
    tưởng và tình cảm của ta từng giờ từng phút trên con đường thanh tịnh hóa
    thân và tâm. 
    Pháp định gồm có ba chi: tinh tấn, niệm
    và định. Cả ba liên hệ chặc chẻ với nhau. Trong ba chi nầy, chánh niệm
    quan trọng nhất để giử tâm an định quân bình. Hành giả tu Phật cần
    luôn giử chánh niệm khi đi-đứng-nằm-ngồi. 
    Niệm còn có nghĩa thứ hai là hiểu
    thấu đáo (Sampajanna). 
    Vô minh là không hiểu biết điều
    ác, không hiểu biết ngũ uẩn, không hiểu biết sự kiện liên
    hệ giữa trần và thức, không hiểu biết tánh không và lý nhân
    duyên, không biết sự nô lệ tham ái và bốn chân lý vi diệu. 
    Vô minh được thân, khẩu và ý nuôi
    dưỡng, ngăn cản tâm tỉnh thức và hiểu biết thấu đáo. Thiếu
    hiểu biết thấu đáo là thiếu chánh kiến nên người vô minh
    nhìn vô thường cho là thường còn, nhìn khổ não cho là hạnh phúc, nhìn vô
    ngã cho là tự ngã, nhìn xấu cho là tốt, Khi vô minh tăng trưởng, tham ái và
    khát vọng tái sinh được nuôi dưỡng, khiến con người trầm luân trong
    biển luân hồi. 
    Niệm cũng có nghĩa thứ ba là sự nhớ,
    chú ý, tỉnh thức. Một người đi từ chổ tối ra chổ sáng sẽ nhận biết
    rỏ ràng mọi vật chung quanh. Cùng thế đó, người tỉnh thức với chánh
    niệm sẽ hiểu biết thấu đáo về mọi việc và đưa thực
    tướng mọi việc từ bóng tối vô minh đến ánh sáng trí tuệ.
    Chánh niệm trong Bát Chánh Ðạo được giảng rỏ trong kinh Tứ Niệm Xứ
    (Satipathana = là nơi để ghi nhớ). Kinh Tứ Niệm Xứ là bài kinh về
    thiền định rất quan trọng, Ðức Phật đã giảng kinh nầy lần đầu trong
    bài pháp số 10 Trung Bộ Kinh (kinh Majhima Nikaya) và lần thứ hai trong bài pháp
    số 22 Trường Bộ Kinh (Digha Nikaya) nhấn mạnh đến Tứ Ðế. 
    Kinh Tứ Niệm Xứ rất quan trọng trong
    Phật Giáp Nguyên Thủy. Chư tăng thường tụng kinh nầy cho người bệnh hay
    người sắp chết. 
    Khi đã hiểu kinh Tứ Niệm Xứ, ta có
    thể áp dụng vào đời sống thế gian bất cứ nơi nào, bất cứ lúc nào
    để luôn luôn thanh lọc thân tâm. 
    Người thực hành Tứ Niệm Xứ là người
    luôn luôn giử chánh niệm về thân-thọ-tâm-pháp, ý thức vô
    thường, khổ não và vô ngã. Hành giả thực hành Tứ Niệm Xứ chắc chắn sẽ
    đắc đạo quả cao thượng Niết Bàn, hoặc ít ra cũng chứng được quả
    thánh Bất Lai. 
      
    Tóm tắt Kinh Tứ Niệm Xứ (Satipatthana
    Sutta) 
    Tôi được nghe như vầy: Một hôm, Ðức
    Thế Tôn đang ngự tại Kammassadhamma, một khu phố của giống dân Kuru. Ngài
    dạy: "Nầy tỳ khưu! Như Lai dạy cho quý vị con đường duy nhất để
    thanh lọc thân-tâm, vượt thắng phiền não, tiêu diệt khổ đau, đạt
    tới Chánh Ðạo và chứng nhập Niết Bàn. Ðó là con đường Tứ Niệm
    Xứ. 
    
      Quán niệm thân (Kayanupassana) không tham
      ái về thân; 
      Quán niệm thọ (vedananupassana) không tham ái về thọ; 
      Quán niệm tâm (cittanupassana) không tham ái về tâm; 
      Quán niệm pháp (dhammanupassana) không tham ái về pháp. 
     
    1. Quán Niệm Thân 
    Niệm hơi thở 
    Hành giả tìm đến một khu rừng, hoặc
    một gốc cây, hoặc một góc nhà vắng, ngồi trong tư thế kiết già, giữ
    thân hình ngay thẳng và đặt mình trong sự quán niệm. Người ấy thở vào
    với ý thức minh mẫn là mình đang thở vào. Người ấy thở ra với ý
    thức mình đang thở ra. Hơi thở dài, hành giả ý thức dài. Hơi thở cạn,
    hành giả ý thức cạn. Hành giả ý thức theo dỏi hơi thở đi từ ngoài
    vào trong, từ trong ra ngoài. Hành giả chú tâm niệm hơi thở không để
    ý bám víu vào vật gì bên ngoài. Cứ như thế, hành giả sống trong sự
    thường trực quán niệm thân. 
    Niệm thân 
    Khi bước chân, hành giả ý thức chân
    bước. Khi ngừng, hành giả ý thức chân ngừng. Khi ngồi, hành giả ý
    thức ngồi. Cứ như thế, khi đi-đứng-nằm-ngồi, hành giả nhận thức mình
    đang đi-đứng-nằm-ngồi. Cứ như thế, hành giả sống trong sự thường trực
    quán niệm thân. 
    Niệm thân bất tịnh 
    Hành giả quán niệm thân thể bao
    bọc bởi lớp da chứa đầy các chất bất tịnh, da bọc mở, thịt xương.
    Lông tóc, máu mủ, đàm nhớt, không có gì đẹp đẻ đáng luyến ái ... Cứ
    như thế, hành giả sống trong sự thường trực quán niệm thân. 
    Niệm tứ đại 
    Hành giả quán chiếu những yếu tố
    tạo nên thân thể là địa đại, thủy đại, hỏa đại và phong đại ... Cứ
    như thế, hành giả sống trong sự thường trực quán niệm thân. 
    Niệm thây ma 
    Nhìn xác chết trong bãi tha ma qua một
    ngày, hai ngày, bị thiêu đốt, hảnh giả quán niệm thân ta một ngày nào
    đó cũng sẽ tiêu hoại như vậy. Cứ như thế, hành giả sống trong sự
    thường trực quán niệm thân. 
    2. Quán Niệm Thọ 
    Mỗi khi thọ khoái lạc phát sanh, hành
    giả ý thức đang có thọ khoái lạc. Khi thọ khổ, hành giả ý
    thức đang thọ khổ. Khi thọ đau, hành giả ý thức thọ đau. Khi
    có thọ vô ký, hành giả ý thức thọ vô ký.... Cứ như
    thế, hành giả sống trong sự thường trực quán niệm cảm thọ. 
    3. Quán Niệm Tâm 
    Khi tâm tham dục phát sanh, hành giả ý
    thức tâm tham dục. Khi tâm không tham phát sanh, hành giả ý thức tâm không
    tham. Khi tâm sân phát sanh, hành giả ý thức tâm sân. Khi tâm không sân
    phát sanh, hành giả ý thức tâm không sân. Khi tâm si mê phát sanh, hành
    giả ý thức tâm si mê. Khi tâm động phát sanh, hành giả ý thức tâm
    động. Khi tâm ở trạng thái định trong sắc giới, hành giả ý thức tâm
    định ... Cứ như thế, hành giả sống trong sự thường trực quán niệm
    tâm. 
    4. Quán Niệm Pháp 
    Các pháp là đối tượng của tâm gồm có: 
    
      - năm chướng ngại 
      - năm uẩn 
      - sáu căn, sáu trần 
      - Thất Giác Chi 
      - Tứ Diệu Ðế 
     
    Năm chướng ngại 
    
      - Khi tâm tham dục phát sanh, hành giả ý
      thức có tham dục; 
      - Khi sân hận phát sanh, hành giả ý thức có sân hận; 
      - Khi si mê phát sanh, hành giả ý thức có si mê; 
      - Khi phóng tâm phát sanh, hành giả ý thức có phóng tâm; 
      - Khi hoài nghi phát sanh, hành giả ý thức có hoài nghi. 
     
    Cứ như vậy, hành giả sống trong sự thường
    trực quán niệm năm chướng ngại. 
    Năm uẩn 
    Hành giả quán niệm đây là sắc uẩn,
    đây là sự thành-trụ-hoại-diệt của sắc uẩn. Thọ uẩn, hành uẩn,
    tưởng uẩn, thức uẩn cũng vậy. Hành giả tỉnh thức quán niệm ngũ uẩn. Cứ
    như thế, hành giả sống trong quán niệm về năm uẩn. 
    Sáu căn và sáu trần 
    Hành giả quán niệm về sáu giác quan
    và sáu đối tượng. Hành giả ý thức mắt và đối tượng của mắt là hình
    sắc, ý thức những ràng buộc tạo nên do mắt và hình sắc... Cứ như
    thế hành giả sống trong quán niệm về sáu căn và sáu trần. 
    Thất giác chi 
    Thất giác chi là bảy pháp liên quan đến
    sự chứng ngộ gồm có: 
    
      Niệm (sati) là sự ghi nhớ về
      thân-thọ-tâm-pháp; 
      Trạch pháp (dhammavicaya) là nhiệt thành khảo sát Giáo Pháp; 
      Tinh tấn (viriya) là một loại tâm sở cũng là chánh tinh tấn trong Bát Chánh
      Ðạo; 
      Phỉ (piti) là loại tâm có cảm giác hạnh phúc; 
      An (passadhi) là tâm an tỉnh; 
      Ðịnh (samadhi) là trạng thái tâm ổn định vững chắc; 
      Xả (upekkha) là tâm quân bình, trung lập không thiên vị, không xao động. 
     
    Khi có chánh niệm, hành giả ý thức
    là mình có chánh niệm. Khi có trạch pháp, hành giả ý thức mình có
    trạch pháp. Khi có tinh tấn, hành giả ý thức mình có tinh tấn. Khi có
    phỉ, hành giả ý thức mình có phỉ. Khi có tâm an, hành giả ý thức
    mình có tâm an. Khi có tâm định, hành giả ý thức mình có định. Khi có
    tâm xả, hành giả ý thức mình có tâm xả. Cứ như thế, hành giả sống
    trong quán niệm các pháp thất giác chi. 
    Tứ Diệu Ðế 
    Hành giả quán niệm đây là khổ nảo,
    đây là nguồn gốc khổ, đây là chấm dứt khổ, đây là con đường chấm dứt
    khổ. Khi sự kiện là khổ đau, hành giả ý thức khổ đau. Khi sự
    kiện là nguyên nhân khổ đau, hành giả ý thức nguyên nhân. Khi sự
    kiện chấm dứt khổ đau, hành giả ý thức sự chấm dứt. Khi sự kiện
    là con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ đau, hành giả ý thức con
    đường ... Cứ như thế, hành giả sống trong quán niệm về Tứ
    Diệu Ðế. 
    Nầy chư vị! người nào thực hành Tứ
    Niệm Xứ trong vòng bảy năm, người ấy có thể có khả năng đạt được
    quả vị chánh trí ngay ở đây và trong kiếp nầy, hoặc nếu còn dư báo
    thì cũng đạt được quả vị A-la-hán, không còn tái sanh. 
    Nầy chư vị! đừng nói tới bảy năm. Kẻ nào
    thức hành Tứ Niệm Xứ như vậy trong vòng 6 năm, hoặc 5 năm... hoặc 1
    năm..., người ấy có thể có khả năng đạt được quả vị chánh trí ngay
    tại đây và trong kiếp nầy, hoặc nếu còn dư báo thì cũng đạt được
    quả vị A-la-hán, không còn tái sanh. 
    Nầy chư vị! đừng nói tới 1 năm, kẻ nào
    thực hành Tứ Niệm Xứ trong vòng 7 tháng hay 6 tháng ... hay một tháng,
    người ấy có thể có khả năng đạt được quả vị chánh trí ngay tại đây
    và trong kiếp nầy, hoặc nếu còn dư báo thì cũng đạt được quả vị
    A-la-hán, không còn tái sanh". 
    -oOo- 
      
    Chánh Ðịnh (Samma Samadhi)
    Chánh định là thiền
    định chân chánh, là pháp tu thứ tám trong Bát Chánh Ðạo thuộc nhóm Ðịnh.
    Theo đạo Phật, tâm trong trạng thái thiền định khác với trạng thái hôn
    mê bất tỉnh. Ðó là trạng thái tâm an tịnh, tỉnh thức và ghi nhớ. Người
    hành thiền có thể đạt vào các tầng thiền và có thần thông như
    nghe xa, đọc tư tưởng, thấy chuyện quá khứ, vị lai v.v... Nên nhớ
    đây chỉ là những khả năng tự nhiên của tâm định, không phải cứu cánh
    giải thoát. Nhiều người quen sống theo vật chất, thiếu hiểu
    biết về đời sống tâm linh, khi thấy một vài người thi triển thần
    thông vội mê tín tin theo nên gặp phải tà đạo. Chánh định khác với tà
    định ở chổ cứu cánh của chánh định là giải thoát, cứu cánh của tà định
    là thần thông. 
    Ðức Phật dạy kiểm soát tâm và thanh
    lọc tâm là việc quan trọng nhất phải làm vì hạnh phúc giải thoát
    đến từ tâm an định, trí tuệ, đau khổ đến từ tâm ô nhiễm, vô
    minh. 
    Ðừng nên hiểu lầm kiểm soát tâm là
    ràng buộc cản trở sự phát triển khả năng của cá nhân. Muốn các khả
    năng cao thượng của tâm bộc phát, tâm tự do phóng túng chạy theo dục
    vọng cần được trau dồi, kiểm soát không để tam độc tham-sân-si
    chi phối. 
    Người kiểm soát tâm trở nên hữu ích
    cho chính mình và xã hội. Người có tâm phóng túng làm hại cho họ và
    người khác. 
    Giai cấp, chủng tộc, mầu da, tài sản, không
    nhất thiết làm con người trở nên thánh thiện. Chỉ có đời sống chân
    chánh làm con người thánh thiện vì đời sống đó dẫn đến trí
    tuệ. 
    Phương pháp phát triển tâm linh do Ðức
    Phật chỉ dạy là thiền định. Con người trở nên sáng suốt, phát sanh
    những tư tưởng siêu việt, những khám phá đặc biệt, khi tâm người
    đó an tịnh và chú ý suy niệm lâu dài về một vấn đề. Năng
    lực tạo tác hữu hiệu nhất thường yên lặng. Vậy mà con người lúc nào
    cũng thích động hơn tịnh. 
    Phần đông chúng ta bận rộn chạy theo đời
    sống, mãi lo giải quyết chuyện thế gian nên bỏ quên sự cần
    thiết yên lặng thiền định. Khi chạy đua với cuộc sống bên ngoài, ta
    giống như con sóc chạy theo bánh xe trong lồng vàng, tưởng rất bận rộn, thực
    ra không đi đến đâu. Khi ngồi yên lặng thiền định, ta giống như con
    gà ấp trứng có vẽ ngồi không, nhưng thật sự đang thực hành việc làm vô
    cùng quan trọng để trứng nở ra con. Hằng ngày, ta nên để ít nhất
    nửa tiếng làm con gà ấp trứng. Khi yên lặng nhìn vào nội tâm, một mình
    đối diện với tâm thức, ta sẽ nhận thức được sự thật về những
    khuyết điểm và giới hạn của đời sống. 
    Lý do thường nêu ra để không
    thiền định là bận rộn việc nhà, thiếu hiểu biết, sức khỏe
    yếu kém, tuổi già v.v... Không lý do nào chính đáng cả. Thiền
    định không phải cắt đứt mọi liên hệ với đời sống. Ðừng nên chần
    chờ, hãy bắt đầu ngay. Mỗi ngày chỉ cần thiền định năm hay mười
    phút, dần dần hành giả sẽ thấy sự chú ý tăng trưởng dể dàng. Hành
    giả sẽ hưởng lợi ích của thiền định ngay trong sinh hoạt hằng ngày. Tâm
    hành giả sẽ dể chịu và những căng thẳng của đời sống sẽ giảm bớt. Hãy
    dùng tâm tinh tấn để cố gắng tiếp tục rồi gia tăng thời giờ
    thiền định. 
    Khi sư Nakulapita tuổi già bệnh nặng
    đến đãnh lể Phật, Ðức Phật dạy: "Thân con nay đã già yếu,
    nếu cố gắng tìm lại sức tráng kiện xưa kia thật là điên rồ. Con hãy
    nghĩ như vầy: Thân ta tuy bệnh yếu nhưng ta quyết không để tâm
    suy yếu. Con hãy tinh tấn suy niệm như thế!". 
    Kiểm soát tâm là chìa khóa hạnh phúc,
    là vua của giới đức, là động lực dẫn đến giác ngộ. Sự an tỉnh không
    phải yếu hèn. Người an tỉnh là người rèn luyện cao thượng. 
    Có hai loại thiền: Thiền Chỉ hay
    Thiền Tam-ma-đề (samadhi) và Thiền Quán hay Thiền Minh-Sát
    (vipassana). Thiền Chỉ là an tâm dẫn đến tâm định. Thiền Quán hay
    Thiền Minh Sát làm cho tâm thấy sự vật rỏ ràng, đúng thực tướng của
    nó, vượt ra ngoài sự thấy thông thường. Ðó là sự thấy ba thực tướng vô
    thường, khổ não và vô ngã. Chính nhờ tâm định chú tâm vào đối tượng,
    hành giả có thể diệt trừ các ô nhiễm vô minh và thấy được chân
    lý. Ðó là pháp thiền do Ðức Phật tự khám phá. Thiền Chỉ và
    Thiền Quán (samatha-vipassana) đi đôi và hổ trợ cho nhau. Một bên làm tâm
    định, một bên quán sát sự vật để soi thấu thực tướng. Phật dạy:
    "Tâm an tịnh nhìn thấy sự vật rỏ ràng". 
    Thiền Chỉ rất cần thiết và quan
    trọng trong đạo Phật, tuy nhiên tâm định không phải cứu cánh của tu tập.
    Thấy thực tướng sự vật qua thiền quán chính là cứu cánh. Phật dạy:
    "Có hai điều cần thiết để diệt trừ tam độc. Cái gì là
    hai? Ðó là Chỉ và Quán". Tâm có định thì không còn ái dục. Tâm có
    quán thì chánh kiến phát sanh. Khi có chánh kiến, vô minh không còn. 
    Do đó, chánh định và chánh kiến không
    thể tách rời nhau, phải hổ trợ cho nhau. Nếu tâm không định, ta không
    thể thấy rỏ sự vật. Nếu không thấy rỏ sự vật, ta không thể có
    cái nhìn đúng. 
    
      Thiếu trí không thiền định 
      Thiếu định không trí tuệ 
      Người có định, có trí tuệ 
      Nhất định gần Niết Bàn. 
     
    Hành giả đi tìm con đường thanh tịnh, giữ
    đời sống chân chính, diệt trừ ái dục, sống trong thiền định và
    diệt trừ các chướng ngại trong khi thiền định. Năm chướng ngại cản
    trở tu tập (panca nivaranami) gồm có: 
    
      - tham dục (kamachanda) là tâm quyến
      luyến vật dục 
      - sân hận (vyapada) là tâm mong làm cho hư hoại hạnh phúc người khác 
      - hôn trầm (thina-middha) là tâm lười biếng, dã dượi 
      - phóng tâm (uddhacca-kukkacca) là tâm xao lãng lo ra 
      - hoài nghi (vicikiccha) là tâm không tin chắc chân lý 
     
    Người thiền định có năm năng lực
    thiện diệt trừ chướng ngại là: 
    
      - tầm (vitakka) là tâm suy nghĩ đối tượng 
      - sát (vicara) là tâm quan sát đối tượng 
      - phỉ (piti) là tâm hạnh phúc an lành 
      - lạc (sukkha) là tâm an lạc 
      - trụ (ekaggata) là tâm định hoàn toàn (nhất điểm). 
     
    Khi thiền định, đối nghịch giữa hai cập
    như sau: 
    
      - Trụ hóa giải tham dục; 
      - Phỉ dùng hóa giải oán hận; 
      - Tầm dùng hóa giải hôn trầm; 
      - Lạc dùng hóa giải phóng tâm; 
      - Sát dùng hóa giải hoài nghi. 
     
    Hành giả muốn thiền định chân chánh
    chọn nơi vắng lặng và chú tâm vào đề mục thiền. Lúc đầu, đây
    là việc làm rất khó khăn, hành giả sẽ thấy tâm sanh, diệt, tư tưởng
    hiện ra, phóng đi. Hành giả sẽ kinh nghiệm những chướng ngại thiền
    định. Ðừng nản lòng, với tinh tấn và chánh niệm dần dần hành giả
    diệt trừ chướng ngại, chú tâm vào đề mục thiền. Khi tất cả
    chướng ngại đã diệt và những ô nhiễm trong tâm đã thanh lọc, hành
    giả nhập đại định (appana samadhi). Ở điểm nầy, tâm hành giả trụ
    vào nhất điểm ví như đèn cầy vững vàng đứng ngọn, không chao
    động, không lay chuyển, ở một nơi không có gió. Hành giả nhập định,
    tâm an trụ tỉnh lặng không xao động với thế giới bên ngoài.  
    Ở giai đoạn nầy, tâm hành giả đã an
    định, nhưng giác ngộ giải thoát chưa đạt. Những ô nhiễm vô minh vi tế
    vẫn còn ẩn nấp sâu trong tiềm thức, khi có dịp chúng sẽ xuất hiện qua
    ba cửa ngõ thân-khẩu-ý. Hành giả tinh tấn nên tiếp tục giử giới
    để kiểm soát thân-khẩu và thiền định để kiểm soát tâm. 
    Thiền Minh Sát, quán niệm (Vipassana
    Bhavana) là phương pháp duy nhất diệt trừ tận gốc vô minh. Với tâm định,
    hành giả thực hành thiền minh sát quán chiếu đến khi phát sanh trí
    tuệ bát nhã thấy rỏ thực tướng vạn vật. 
    
      Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường 
      Tất cả các pháp hữu vi đều khổ não 
      Tất cả các pháp đều vô ngã. 
     
    Khi hành giả phát sanh trí tuệ, trực
    nhận chân tướng vô thường, khổ não và vô ngã của chính mình, nhìn rỏ ngũ
    uẩn, hành giả chứng đắc đạo quả giải thoát. 
    Các Ðạo Quả 
    Có mười phiền não cần diệt trừ
    để đắc đạo quả cao thượng: 
    
      - thân kiến 
      - hoài nghi chân lý 
      - cúng kiến sai lầm 
      - dục ái 
      - sân hận 
      - sắc ái 
      - vô sắc ái 
      - ngã mạn 
      - phóng dật 
      - vô minh 
     
    Người diệt trừ ba phiền não đầu
    tiên là thân kiến, hoài nghi, cúng kiến sai lầm, đắc quả Dự Lưu hay
    Tu đà hoàn (Sotapanna). Vị nầy chỉ còn tái sanh trở lại 7 lần trước khi đắc
    đạo quả A-la-hán. 
    Người diệt trừ được ba phiền não
    đầu tiên và bắt đầu chế ngự phiền não dục ái và sân hận, đắc
    quả Nhứt Lai hay Tư đà hàm (Sakadagami). Vị nầy chỉ tái sanh trở lại thêm
    một lần trước khi giải thoát sanh tử. 
    Người diệt trừ hoàn toàn năm phiền
    não đầu tiên đắc quả Bất Lai hay A na hàm (Anagami). Vị nầy sẽ giác ngộ
    trong đời nầy hay tái sanh vào cõi vô sắc giới từ nơi đó, đắc đạo quả
    Niết Bàn. 
    Người diệt trừ tất cả mười phiền
    não chứng được quả A-la-hán hay Ứng Cúng Cao Thượng (Arahan) giải thoát sanh
    tử luân hồi. 
    Bậc A-la-hán vượt lên trên đời sống
    thế tục nhị nguyên. Vị nầy không còn tạo nghiệp hay chịu ảnh hưởng
    của nghiệp và định luật nhân quả. 
    
      Người sống ở đời nầy  
      Vượt cả ngoài thiện ác 
      Vô cấu, tịnh, vô ưu 
      Ta gọi là bà la môn. 
      Bỏ trói buộc nhân gian  
      Khỏi trói buộc thiên giới  
      Giải thoát mọi buộc ràng 
      Ta gọi Bà la môn 
      (Nơi đây, danh từ bà-la-môn đồng nghĩa
      với A-la-hán) 
     
    Các Ðề Mục Thiền Ðịnh 
    Tùy theo căn tánh chúng sanh, Ðức Phật chỉ
    dạy 40 đề mục thiền định: 
    
      - 10 đề mục dùng vật để niệm
      tâm (kasina) 
      - 10 đề mục về tử thi (asubha) 
      - 10 đề mục về suy niệm (anussati) 
      - 4 đề mục về phẩm hạnh (Brahmavihara) 
      - 4 đề mục về thiền vô sắc (aruppa) 
      - 1 đề mục về tri giác (Eka sanna) 
      - 1 đề mục phân biệt (vavathana) 
     
    Ðức Phật dạy đại đức Rahula như sau: 
    
      - Hãy thiền định về tâm từ để
      đối trị tâm sân; 
      - Hãy thiền định về tâm bi để đối trị tâm ác độc; 
      - Hãy thiền định về tâm hỷ để đối trị tâm ganh tỵ; 
      - Hãy thiền định về tâm xả để đối trị tâm ganh ghét; 
      - Hãy thiền định về thây ma để đối trị tâm luyến ái; 
      - Hãy thiền định về vô thường để đối trị với cái ta; 
      - Hãy thiền định về hơi thở, con sẽ thấy nhiều lợi ích. 
     
    Không cần thiền định tất cả 40 đề
    mục trên, ta chỉ cần chọn đề mục nào thích hợp với căn tánh mình
    nhất để thiền định là đủ. Ðiều quan trọng là thực tập hằng
    ngày, kết quả sẽ đến. Chỉ cần thực hành thiền định về hơi
    thở (anapanasati) thật đúng cách, thật rốt ráo. Cũng đủ đạt đến đạo
    quả giác ngộ như ngày xưa Bồ Tát Cồ Ðàm đã chứng ngộ. 
    Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikaya) tóm tắt bài
    pháp Ðức Phật giảng về Thiền Niệm Hơi Thở (Sổ Tức Quán -
    Anapanasati) cho ngài Rahula như sau: 
    "Hãy tìm nơi thanh tịnh, ngồi xếp
    bằng, lưng thẳng, chú tâm vào hơi thở. Với chánh niệm, hít vào, thở ra.
    Khi hít vào sâu, ý thức hơi sâu. Khi hít vào cạn, ý thức hơi cạn.
    Khi hơi thở ra dài, ý thức hơi dài. Khi thở ra ngắn, ý thức hơi ngắn.
    Ý thức trọn vẹn hơi thở ra vô, hãy chú niệm theo dỏi hơi thở. Ý
    thức tỉnh lặng, chú niệm hít vào, thở ra. Hãy thực hành như thế,
    ý thức theo dỏi hơi thở ra vào cho đến hơi thở cuối cùng". 
    Thở là việc làm máy móc ta thường
    không để ý. Khi thiền định về hơi thở, quan trọng là
    ý thức tâm chú tâm vào hơi thở vào ra. Chỉ cần theo dỏi hơi thở tự
    nhiên, không phải cố gắng tập thở dài ngắn, hay đưa hơi thở theo chiều
    hướng nào, cũng không làm tâm trống không. 
    Giữ được tâm niệm chú ý về
    hơi thở đến độ không nghĩ tưởng đến việc gì khác, không thấy
    cảm việc gì bên ngoài, gọi là trụ tâm vào hơi thở. Với tâm định
    trong hơi thở, dần dà hành giả sẽ nhận thức hơi thở vào ra là một tiến
    trình liên tục, luôn thay đổi dài ngắn, vào ra. Ðó là giác ngộ vô thường.
    Rồi hành giả sẽ nhận thức sự sống của năm uẩn tùy thuộc vào hơi thở vào
    ra, ngoài hơi thở không có gì gọi là cái ta hay tự ngã, không có gì
    để luyến ái. Ðó là giác ngộ vô ngã. 
    Thiền định là việc khó làm, lúc
    đầu ta không nên chờ đợi kết quả tức khắc. Kiểm soát tâm là
    việc làm lâu dài. Không nên hấp tấp. Chỉ cần đều đặn mỗi ngày
    cố gắng dần dà sẽ thành công. Người thường thiền định về hơi thở
    kinh nghiệm tâm an tỉnh phỉ lạc trong sáng, đồng thời thân thể cũng
    nhẹ nhàng khỏe mạnh. 
    Nên ghi nhớ những lời vàng Ðức Phật
    để lại khuyến khích ta thiền định trau dồi tâm: 
    
      Người dẫn thủy dẫn nước 
      Kẻ bắn cung nắn tên 
      Người thợ mộc uốn ván 
      Kẻ trí thức nhiếp thân 
      Tỳ kheo sống nhàn tịnh  
      Tâm tư lặng thường hằng 
      Tịnh quán theo chánh pháp 
      Thọ hưởng vui siêu nhân. 
     
    -oOo- 
    [Hết]  |