BuddhaSasana Home Page |
Vietnamese, with Unicode Times font |
Ba đặc tướng của đời sống
Phạm Kim Khánh
[01] A. Khổ Ðức-Phật sanh ra là Thái-tử Siddhattha (Sĩ-Ðạt-Ta hay Tất-Ðạt-Ða), một người như tất cả mọi người. Vào năm 35 tuổi, Ngài khước từ cuộc sống trên nhung lụa của cung vàng điện ngọc và trở thành Ðạo-sĩ Gotama (Cồ-Ðàm). Sau sáu năm theo học với các vị đạo-sư trứ danh thời bấy giờ và thực hành các pháp khổ hạnh đến mức cùng cực mà không thâu đạt được kết quả mong muốn, Ðạo-sĩ Gotama tìm đến một nơi vắng vẻ tại Uruvela (Ưu Lâu Tần Loa), giữa khu rừng tươi tốt, bên cạnh một giòng sông ngoạn mục, rồi ngày đêm trầm tư mặc niệm, gom tâm quan sát từng yếu tố vật chất và tinh thần của chính bản thân mình Ngài tìm ra Ánh sáng Chân-Lý, trở thành Phật, bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác. Từ đó, trong 45 năm trường Ðức-Phật Gotama đi cùng khắp miền Bắc xứ Ấn-Ðộ, từ làng này đến làng khác, từ tỉnh nọ đến tỉnh kia, đi trên các con đường lớn và các nẻo nhỏ, để mang lại cho nhân loại bức thông điệp hòa bình và an tịnh, bủa rộng vòng hào quang từ-bi và trí tuệ vô-lượng vô-biên của Ngài bao trùm tất cả sanh linh. Tôn giáo do Ngài sáng lập được gọi là Phật-Giáo. Như vậy, Phật-Giáo xuất phát từ nhân sinh, hướng về nhân sinh, nhằm phục vụ nhân sinh. Ðức-Phật không đặt nền tảng giáo lý trên sự sợ sệt một oai lực huyền bí siêu thế nào, cũng không dạy hàng tín đồ phải mong nhờ sự giúp đỡ nào từ bên ngoài, hay trông cậy nơi sự cứu rỗi nào từ trên ban xuống. Ngài dạy chẳng nên vội tin chắc một điều gì là chân lý chỉ vì điều ấy đã được ghi chép trong kinh sách, hay vì điều ấy do một nhân vật quan trọng hoặc có uy quyền truyền dạy, chí đến lời của chính Ngài, cũng không nên vội vã tin càng mà phải luôn luôn dùng lý trí phân tách, quan sát, xét đoán tỷ mỷ, tận tường, phân biệt đâu là lẽ phải rồi mới quyết định tin cùng không. (xem kinh Kalãma Sutta, Anguttara Nikãya, Tăng Nhứt A Hàm, quyển I, trang 189) Ngài dạy muốn tìm chân lý hãy hướng vào bên trong bản thân mình, bởi vì:
Danh từ Loka mà ở đây được phiên dịch là thế-gian hàm xúc ý nghĩa thế-gian đau khổ và đau khổ là kinh nghiệm của thế-gian bên trong ta. Dukkha là danh từ Pãli mà Ðức-Phật đã dùng để chỉ cái thường được phiên dịch là đau khổ. Vậy, để được rõ ràng hơn ta hãy tìm hiểu ý nghĩa bao hàm trong chữ Dukkha. Trong quyển "The Buddha and His Teachings", Ðại-Ðức Nãrada giải thích:
Trong bài thuyết trình vế Tứ-Diệu-Ðế (The Significance of The Four Noble Truths; Wheel Publication No. 123), đạo hữu cư sĩ Gunaratna giải thích danh từ Dukkha như sau:
Trong bài Pháp đầu tiên, gọi là Kinh Chuyển Pháp Luân, Ðức-Phật mô tả cái khổ như sau:
Một câu chuyện thuật lại như sau:
Ðó là hình ảnh của cuộc sống mà chúng ta đang sống: Người lang thang lạc bước giữa rừng là chúng ta. Khu rừng mênh mông đầy chông gai là kiếp nhân sinh trong vòng luân hồi. Thớt voi tượng trưng cho Tử Thần. Con rắn độc nằm dưới đáy giếng là sự già nua. Sợi dây rừng đầy gai nhọn là sự sinh. Bầy ong là những nỗi khổ đau luôn luôn đe dọa sự an lành của chúng ta. Giọt mật hình dung những thú vui hiếm hoi trong đời sống. Hai con chuột, một trắng, một đen là ngày và đêm. Quả thật vậy, cuộc sống của chúng ta trong vòng luân hồi không giống như một vườn hoa tươi đẹp, lộng lẩy màu sắc và bát ngát hương trầm, mà tựa hồ như một khu rừng mênh mông đầy chông gai và đá nhọn. Trên bước viễn du trong vòng luân hồi, từ vô lượng kiếp, chúng ta vẫn còn đang lặn hụp trong những kiếp sống triền miên tiếp diễn mà không tìm được đường thoát. Hạnh phúc mà phần đông chúng ta mong tìm chỉ là sự thỏa mãn một vài ước vọng. Nhưng vừa khi đạt đến điều mong mỏi ta lại ước mơ điều khác và cứ như thế không ngừng. Chúng ta không bao giờ được thỏa mãn trọn vẹn vì không bao giờ biết là đủ. Lẽ dĩ nhiên, một ước vọng không được toại nguyện làm cho ta đau khổ. Nhưng dầu có được toại nguyện đi nữa, ta lại lo âu, bận tâm suy nghĩ để gìn giữ, sợ nó mất đi. Trong cảnh cơ hàn, ta ước mong được sang trọng giàu có, rồi khi được giàu sang ta lại lo sợ phải nghèo đói cơ cực. Nhưng trong cuộc sống vô thường tạm bợ này có thú vui nào tồn tại mãi mãi, có hạnh phúc nào trường tồn. Mặt trời mọc ở phương Ðông chỉ để lặn ở phương Tây, hoa nở tốt tươi buổi sáng để rồi úa tàn về chiều, mọi cuộc sum hợp vui vầy đều phải chấm dứt trong phân tán chia lìa, vừa lúc sanh ra đời đã phải mang theo mầm mống chết. Chừng ấy nổi sầu muộn càng sâu đậm. Trong thế-gian huyền ảo, tạm bợ, vô-thường, ngã chấp và đầy tham vọng này chúng ta không thể tìm được hạnh phúc thật sự, trường tồn vĩnh cửu. Sanh, già, bệnh, chết là những gì mà trong đời sống không ai có thể tránh khỏi. Và bốn trạng thái đau khổ ấy được tượng trưng trong câu chuyện bằng sợi dây, con rắn, gai nhọn trên sợi dây và thớt voi. Cái sanh mà trong câu chuyện, được tượng trưng bằng sợi dây đầy gai nhọn phải được hiểu là sự sống và sự sống trong một kiếp bắt đầu lúc vừa được thọ thai, không phải lúc lọt lòng mẹ. Vài người tưởng tượng thai bào như một nơi chốn ấm cúng đầy đủ tiện nghi, hay như một tịnh thất đượm nhuần tình thương mà con người ẩn rút vào đó một thời gian để tịnh dưỡng tâm linh. Trong thực tế, được thọ thai vào lòng mẹ không giống như hiện thân vào nằm trong một đóa hoa sen đẹp đẽ, tinh khiết và có mùi thơm dịu dàng. Trái lại, tứ bề là những gì nhơ nhớp, tanh hôi. Không có gì là hấp dẫn cho cả mẹ lẫn con. Sau chín tháng mười ngày chịu đựng mọi đau khổ, nằm trong một cái bọc, em bé thoát lòng mẹ và được kéo lôi ra, tống vào đời. Một lần nữa, mẹ và con vô cùng đau đớn. Mẹ nhăn nhó rên siết, con cất tiếng chào đời bằng giọng la khóc, trong khi mọi người khác hân hoan thỏa thích đón mừng. Khi nói sanh là khổ, không phải chúng ta chỉ nghĩ đến nỗi khổ nhọc hiểm nguy gây nên do cảnh mang nặng đẻ đau mà sâu xa hơn, ta phải nhận thức rằng chính cái sanh là đầu dây mối nhợ, là khởi duyên, tạo cơ hội cho cái khổ bám vào. Nếu không sanh tức không có sự sống và không có sự sống tức là không có khổ. Vì lẽ ấy mục tiêu cứu cánh của người Phật-tử là thoát ra khỏi vòng sanh tử luân hồi, tức thoát ra khỏi mọi khổ đau. Nhưng bản chất tự nhiên của chúng sanh là cố bám vào sự sống, giống như anh chàng bị gai quàu trầy cả mình mẩy mà vẫn đeo chắc lấy sợi dây, vì ái-dục là một năng lực vô cùng hùng mạnh, luôn luôn tiềm tàng ngủ ngầm bên trong tất cả mọi người. Chính ái-dục, thô kịch hay vi tế, thúc đẩy ta đeo níu, cố bám chắc vào sự sống dưới mọi hình thức và do đó, dẫn dắt ta mãi mãi phiêu bạt trong biển trầm luân. Ðã sanh ra tất trưởng thành và đi dần vào cảnh già nua. Trong câu chuyện, con rắn độc nằm dưới đáy giếng tượng trưng cho tuổi già. Danh từ "Jarã" mà Ðức-Phật dùng ở đây không phải chỉ riêng tuổi già mà hàm xúc ý niệm "đi dần đến tuổi già" hay "hư hoại". Như vậy có sự biến đổi từ lúc còn trong bào thai chớ không đợi đến lúc lọt lòng mẹ. Lẽ dĩ nhiên, thân thể hao mòn tiều tụy, răng long, tóc bạc, má cóp da nhăn, mắt mờ tai điếc, tinh thần suy kém, trí não lu mờ, quên trước lộn sau... là cảnh già nua phát lộ ra ngoài và nổi bật một cách hiển nhiên mà tất cả mọi người đều thấy. Nhưng từ khi thọ thai, chúng ta luôn luôn biến đổi, liên tục trưởng thành, không ngừng trở thành một cái gì mới, rồi đi dần đến cảnh già nua, diệt vong và tan rã. Tất cả mọi sự vật được cấu thành đều phải hư hoại và diệt vong. Lẽ dĩ nhiên, thể xác của chúng ta, do nhiều thành phần lớn nhỏ cấu hợp, ắt phải bị hoại diệt. Ðó là đau khổ (Dukkha) đối với những ai hằng bám níu vào cơ thể vật chất của mình, chấp rằng đây là "Tôi", cái này là "của Tôi". Chúng ta có thể nhìn sự hư hoại của thân, tức Dukkha, dưới ba phương diện. Trước là một phần của thân hư hoại, không thể hoạt động như ý ta muốn, như một cánh tay hay một cái chân bại xụi, một bộ phận trong mình bị tê liệt... và hằng trăm triệu chứng ương yếu khác. Trường hợp thứ nhì là giác quan hư hỏng, như đui mù, câm điếc chẳng hạn. Và thứ ba là trí não, hư hoại như thần kinh rối loạn, mất trí nhớ, trở nên lãng trí không còn hiểu biết rõ ràng. Tất cả những trạng thái hư hoại ấy đều dẫn đến đau khổ. Nhưng nếu so sánh, hai phương diện hư hoại đầu, dầu rất khó chịu đựng, vẫn không sâu xa bằng phương diện thứ ba. Ta có bị tật nguyền cách nào, trạng thái đau khổ chỉ kéo dài trong một kiếp sống, trong khi người mà tâm linh hư hoại ắt không đủ sáng suốt để đi theo con đường của Giáo-pháp và như vậy phải chịu khổ đau triền miên trong nhiều kiếp sinh tồn. Nhiều bạn trẻ rất hãnh diện với thân hình cường tráng khỏe mạnh của mình, vẫn không thích nghĩ đến tuổi già, để trọn vẹn thọ hưởng những thú vui của thời niên thiếu. Nhưng dầu ta có nghĩ đến nó cùng không, nó vẫn ở đâu đây. Con rắn độc vẫn luôn luôn nằm dưới đáy giếng. Tình trạng già nua đến với ta từng giây, từng phút và thâu ngắn đời sống chúng ta trong từng chập tư tưởng. Bao nhiêu người trong chúng ta, chịu bình tâm suy niệm về hiện tượng chết? Có sanh, có sống là có bệnh. Bệnh hoạn là việc dĩ nhiên trong đời sống và trong câu chuyện, được tượng trưng bằng những gai nhọn trên sợi dây. Dầu già, dầu trẻ hay bất luận ở lứa tuổi nào ta cũng có thể lâm bệnh. Tấm thân ô trược này chỉ là nơi nương tựa của bao nhiêu bệnh hoạn tật nguyền. Ðức-Phật dạy:
Có những bệnh tật của thể xác, cũng có những bệnh tinh thần. Cả hai, bệnh tinh thần hay thể xác, đều là nguyên nhân sanh khổ. Vào thời Ðức-Phật có một cụ già tên Nakulapita, một hôm đến bạch với Ngài:
Một nguyên nhân khác đưa đến đau khổ (Dukkha) mà không ai có thể tránh là cảnh sanh tử biệt-ly, bởi vì chết là nghìn thu vĩnh biệt. Trên bước thênh thang trong vòng luân hồi đã bao lần ta chết và đã bao lần ta khóc cái chết của một người thân. Hãy lắng nghe đạo hữu Huỳnh Thanh Long ngỏ lời nhắn nhủ người khách lữ hành đang lạc lối giữa rừng:
Sanh, Trụ, Diệt là định luật chung của muôn loài vạn-vật. Trong thế-gian hiện tượng này có cái chi luôn luôn tồn tại? Có cuộc sum hợp nào mãi mãi vững bền? Có cuộc sống nào không đi dần đến cái chết? Cứng rắn như sắt đá, to lớn như hành tinh, hung dữ như ác thú, khôn ngoan như loài người, tất cả đều phải hoại diệt. Cũng như từ cành cây có nhiều trái rơi rụng, trái non có, trái già có, trái chín mùi có, cùng thế ấy, từ cành cây của đời sống ta có thể rơi lìa bất luận ở lứa tuổi nào, từ sơ sinh, thiếu sinh, tráng sinh, vv... chí đến khi niên cao tuổi lớn. Già chết, trẻ chết, giàu sang chết, quyền quý chết, bần hàn chết, tối tăm ngu muội chết, thông minh sáng suốt chết... cái chết không dành riêng cho một người, một gia đình, một xóm làng, một quốc gia hay dân tộc nào mà đó là số phần của tất cả mọi chúng sanh trong Tam-Giới, từ Dục-Giới, Sắc-Giới đến Vô-Sắc-Giới, từ hạng ngạ quỷ, cầm thú, đến Chư-Thiên, Chư Phạm-Thiên. Chúng ta bước vào đời và trưởng thành giữa những người thân yêu: nào cha mẹ, ông bà, nào cô bác, cậu dì, nào anh chị em, nào thân bằng quyến thuộc, thầy cô, xóm giềng, vv... Chúng ta thương yên nhau, vui cười với nhau, rồi lần lượt mỗi người ra đi một ngã, tùy theo cái nghiệp của mình. Ðến như thế nào, ra đi đường thế ấy. Chúng ta đến một thân một mình, với hai bàn tay trắng. Cũng một thân một mình chúng ta sẽ ra đi với hai bàn tay không. Ðối với phần đông chúng ta, chết là diễn biến đau khổ trọng đại nhất trên đời vì chúng ta suy tư sai lạc. Trong thực tế cái chết không giống như một chằng tinh hung dữ ẩn núp đâu đây trong lùm bụi, bên đường, chực hờ lúc ta trờ tới là chụp lấy ăn thịt. Cái mà ta gọi là chết chỉ là cái gì đã xảy đến ta vô số lần trong kiếp sống, chỉ khác ở một điểm là lần này hiện tượng chết biểu lộ dưới một hình thức hiển hiện hơn. Sách Thanh Tịnh Ðạo (Visuddhi Magga) dạy rằng trong ý nghĩa cùng tột, chúng sanh chỉ sống trong thời gian của một chập tư-tưởng (chập tư-tưởng hay sát-na tâm, được giải thích là một phần triệu triệu của khoảng thời gian một cái chớp):
Như vậy, trong từng khoảnh khắc của kiếp sống chúng ta đang chết và đang tái sanh. Vì mê muội, không phân biệt được bản chất của cái chết tạm thời trong mỗi khoảnh khắc nên chúng ta lo sợ một cái chết đặc biệt, xảy đến vào phút cuối cùng của kiếp sống, mà không thấy rằng đó chỉ là sự chấm dứt tạm thời của một hiện tượng tạm thời. Trong câu chuyện kể trên, cái chết được hình dung như thớt voi luôn luôn theo bén gót người đi lang thang bất định giữa khu rừng bát ngát mênh mông của đời sống". Sanh, già, bệnh, chết là những cái khổ mà mặc dầu không ai tránh khỏi, chỉ đến với ta vào giai đoạn nào. Ta chỉ sanh ra và chết một lần, chỉ trở nên già nua vào lúc xế chiều của cuộc sống và trừ phi phải bị một chứng bệnh kinh niên bất khả trị, ta chỉ lâm bệnh từng lúc. Nhưng còn những đau khổ khác có tánh cách thường xuyên hơn, được Ðức-Phật mô tả trong bài Kinh Chuyển Pháp Luân như sau:
Ðó là những phiền phức và đau khổ khác không ngớt ve vãn để phá tan tình trạng an-lạc của ta. Trong câu chuyện là bầy ong không ngừng bay vù vù bao phủ khách lữ hành đang lạc lối trên cõi thế. Phải sống chung với người mình không ưa thích là một điều khổ. Chung sống với một người điên, với kẻ sát nhân hung bạo tàn ác, với một tên trộm luôn luôn chực hờ để đánh cắp một vật gì của mình, với người có tánh lăng loàn lang chạ, người gian dối, thô lổ cộc cằn, người có tính đâm thọc, đem chuyện đầu kia về dèm pha ở đầu này, sống với người say sưa, hư hèn mất nết, vv... đều là khổ. Vã lại "người mình không ưa thích" ở đây có thể là một con thú, hay một vật làm cho mình khó chịu, cũng có thể là thời tiết quá lạnh hay quá nóng, hoặc nữa là một công việc làm để sinh sống mà mình không thích. Tất cả những hoàn cảnh ấy đều là nguyên nhân đưa đến đau khổ". Cùng một thế ấy, phải xa lìa người thân kẻ yêu là nguyên nhân gây đau khổ khác không thể tránh. Con xa cha mẹ, cha mẹ xa con, chồng lìa vợ, vợ lìa chồng, bạn bè xa cách, quyến thuộc chia lìa đều là khổ. Nhưng có hợp là có tan, đó là lẽ tự nhiên. Cảnh sum hợp trên thế-gian là tạm bợ. Và đời sống của chúng ta, gặp gỡ nhau trên thế-gian cũng chỉ là tạm thời. Tất cả những mối liên hệ trong gia đình, trong xã-hội, như cha mẹ, anh em, chồng vợ, bạn bè quyến thuộc, vv... tất cả đều tạm bợ. Nếu trong trường hợp trên: sống với người không ưa thích, chúng ta bị thương tích vì mũi tên có tẩm thuốc độc "Sân hận" thì ở trường hợp này, xa lìa người thân yêu mũi tên bắn vào mình ta lại tẩm thuốc độc "Tham ái". Chúng ta mến yêu, muốn mãi mãi sống một bên những người, những sinh vật, hay những vật dụng mà ta thương mến hay ưa thích, nhưng rồi tham vọng ấy không được thỏa mãn trọn vẹn và chúng ta thất vọng và đau khổ. Trong một thế-gian mà tính khát khao tham muốn và gắn bó luyến ái luôn luôn ngự trị và cảnh phân tán chia lìa là điều không thể tránh thì làm thế nào chúng ta có thể vượt thoát ra khỏi được hai hình thức đau khổ này? Chúng ta hằng ngày lặn hụp bơi lội trong biển vô-thường và trong lúc ấy, chính chúng ta cũng không ngừng biến đổi, thì chắc chắn là chúng ta phải chịu hai loại đau khổ thường xuyên này. Như vậy, bằng cách này hay cách khác, chúng ta không thể tránh khỏi cảnh "mong muốn mà không được". Ðiều mong ước mà không thành tựu làm cho ta đau khổ. Trái lại, những cảnh ngộ nghịch lòng hay những điều mà ta ít mong mỏi nhất lắm khi đến với ta một cách đột ngột. Những trường hợp nghịch cảnh tương tợ trở thành không thể chịu đựng nổi và đau khổ đến đổi vài người yếu tánh và kém hiểu biết phải nghĩ đến việc quyên sinh, tưởng chừng như chết là giải quyết mọi vấn đề đau khổ. Về điểm này Ðức-Phật dạy rằng chúng sanh phải chịu cảnh già, bệnh, chết, phiền muộn, ta thán, đau đớn, âu sầu và tuyệt vọng và mong muốn: phải chi ta khỏi bị cảnh già, bệnh, chết, phiền muộn, ta thán, đau đớn, âu sầu và tuyệt vọng! Phải chi những hoàn cảnh bất hạnh kia đừng bao giờ đến với ta! Nhưng, không phải chỉ bằng cách mong muốn suông mà ta có thể chận đứng, làm cho những hoàn cảnh bất hạnh ấy không đến với ta. Và điều ước muốn mà không thành tựu là nguyên nhân đưa đến đau khổ. Ðức-Phật nhiều lần nhấn mạnh rằng mong ước suông không thể bảo vệ chúng ta. Ðường lối duy nhất để thoát khỏi đau khổ là thực hành Giáo-pháp và phát triển tuệ minh-sát. Giờ đây, để chấm dứt đoạn mô tả đau khổ (Dukkha) Ðức-Phật dạy:
Ngũ-uẩn thủ ở đây là sự bám níu (thủ:Upãdãna) vào ngũ-uẩn (Pancãkkhandhã), hay năm nhóm bám níu. Như vậy, bám níu vào ngũ-uẩn là khổ. Ðây là sắc thái tế nhị nhất của khổ (Dukkha) và cũng là sắc thái bền bỉ dính liền và gần gủi với chúng ta nhất. Năm nhóm bám níu này tức: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức... là những thành phần cấu hợp nên chúng sanh. Do nghiệp tạo trong tiền kiếp, chúng ta đã bám níu vào ngũ-uẩn từ thủa bắt đầu kiếp sống hiện tại. Và trong kiếp sống hiện tại ta tiếp tục tạo nghiệp bằng cách luôn luôn ham muốn, khát khao hoặc ghét bỏ, xua đuổi điều này vật nọ. Cả hai trường hợp đều là hình thức bám níu khác nhau, vì ghét bỏ, xua đuổi là ham muốn khát khao, tức bám níu, cái ngược lại. Nhưng bản chất của cái mà ta bám níu, ngũ-uẩn, là bất ổn định, không ngừng sanh rồi diệt và như vậy bám níu vào nó không khác nào dơ tay nắm lấy một nắm nước và mong rằng nước sẽ ở lại mãi mãi trong tay. Chắc chắn là ta phải thất vọng. Ðiểm này sẽ được đề cập đến ở đoạn hành-khổ (Sankhãra Dukkhatã). Trên đây là phần đen tối của cuộc sống mà chúng ta đang sống. Tuy nhiên, trong khu rừng của đời sống không phải chỉ có chông gai và đá nhọn. Thỉnh thoảng ta cũng gặp một vài bông hoa tươi đẹp, một vài kỳ hoa dị thảo, hay một vài giọt mật ngọt ngào. Chính những giọt mật hiếm hoi ấy làm cho ta say đắm, quên hẳn mọi sầu khổ và hiểm nguy. Và trong khi chúng ta mãi mê thọ hưởng giọt mật thì hai con chuột, một trắng, một đen, tượng trưng ngày và đêm, không ngừng gặm nhấm sợi dây. Mỗi ngày qua đưa ta đến gần cái chết hơn một ngày. Mỗi đêm qua đưa chúng ta đến gần cái chết hơn một đêm. Giáo-lý của Ðức-Phật đặt trọng tâm vào sự đau khổ (Dukkha) và nhằm chấm dứt đau khổ. Trong khi dạy rằng đau khổ (Dukkha) là đặc tánh nổi bật nhất của đời sống Phật-giáo nhìn Dukkha dưới ba sắc thái:
a) Khổ-Khổ (DUKKHA-DUKKHATÃ ) Trong quyển "The Buddha's Ancient Path", Ðại-Ðức Piyadassi viết:
Ðối với đạo hữu Gunaratna, chỉ cần nhìn quanh ta với cặp mắt quan-sát và tâm suy tư là ta sẽ thấy hiển nhiên nổi bật đặc tánh đau khổ của đời sống. Trong một bài thuyết trình về Tứ-Diệu-Ðế, ông nói:
Ðó là sắc thái đau khổ hiển nhiên của đời sống mà mọi người suy tư đều có thể nhận thấy. b) Vô-Thường Khổ (Viparinãma Dukkhatã ) Ðau khổ vì đời sống là vô-thường, là sắc thái thứ nhì của Dukkha. Khi mà tất cả mọi sự vật đều biến đổi, không có gì ổn định, không có gì bền vững, không có gì tồn tại giống hệt nhau trong hai khoảnh khắc thì hậu quả dĩ nhiên là trạng thái vô-thường, bất ổn, bất định, bất điều hòa, những khía cạnh khác nhau của đau khổ (Dukkha). Chính sự biến đổi là dấu hiệu của Dukkha. Ðau khổ là một cảm giác, danh từ Phật-giáo là Thọ (Vedanã). Theo Vi-Diệu-Pháp (Abhidhamma) có năm loại Thọ, tức năm loại cảm giác:
Trong thực tế, khi tinh thần được hạnh phúc thì vật chất cũng được vui thích và trái lại, khi thể xác được thích thú thì tinh thần cũng được khoan khoái. Vậy, ta có thể gom hai cảm giác vui thích tinh thần và vật chất làm một, gọi chung là Sukkha. Cùng một thế ấy, ta gom hai cảm giác đau khổ, tinh thần và vật chất, làm một và gọi chung là Dukkha. Ðến đây Thọ hay cảm giác, còn ba:
Trong ba cảm giác này Upekkhã rất yếu ớt, hầu như không có. Ta có thể xem như không có cảm giác vô ký. Còn lại hai cảm giác, vui thích và đau khổ, tinh thần cũng như vật chất. Nhưng trong trạng thái luôn luôn biến đổi của mọi sự vật bên trong và bên ngoài, ta không thể có hạnh-phúc vững chắc, tức không có hạnh-phúc thật sự. Trong khi hoàn cảnh biến đổi và tất cả đều phải biến đổi, chính cái hương vị ngọt bùi của hạnh-phúc cũng trở thành vị đắng cay của Dukkha. Vậy, rốt cùng chỉ còn sự đau khổ, tinh thần và vật chất. Thú vui được có tài sản sự nghiệp, thú vui được lợi lộc, thú vui được danh thơm tiếng tốt, được vinh quang phú quý, thú vui gia đình, thú vui với thân bằng quyến thuộc... thật là dễ chịu, thích thú. Nhưng tất cả đều biến đổi và cuối cùng cái chết có thể chia rẽ tất cả. Ðến chừng ấy nỗi sầu muộn cũng sẽ sâu đậm, tương đương với thú vui trước kia. Ông Gunaratna viết:
Chẳng những sự vật tạo thú vui phải biến đổi mà chính người thọ hưởng thú vui ấy cũng luôn luôn biến đổi. Như vậy, chúng ta đang mục kích cảnh tượng buồn cười, những chúng sanh luôn luôn biến đổi cố gắng rượt theo và bám lấy những vật cũng luôn luôn biến đổi, hình ảnh một cái bóng chạy theo và cố chụp cho được một cái bóng khác. Về điểm này Ðại- Ðức Piyadassi giải thích:
Trong quyển The Buddha and His Teachings (Ðức Phật và Phật Pháp), Ðại-Ðức Nãrada viết:
c) Hành Khổ (Sankhãra Dukkhatã ) Sắc thái thứ ba của đau khổ là Hành-khổ (Sankhãra Dukkhatã). Hành (Sankhãra) là một danh từ có rất nhiều ý nghĩa. Ở đây, danh từ này bao hàm tất cả những gì được cấu tạo do nhiều nguyên nhân cùng hợp lại, một cấu hợp, một nhóm, một khối. Theo Phật-giáo con người là sự cấu hợp của hai thành phần: Danh và Sắc, phần tâm linh và phần vật chất. Về phần vật chất như đã thảo luận rộng rãi trong bài Vô-thường, với khoa học hiện đại ta biết rằng thể xác của chúng ta là sự cấu hợp của nhiều tế bào, tế bào là sự cấu hợp của nhiều nguyên tử và nguyên tử bao gồm âm điện tử, dương điện tử, trung hòa điện tử, những thành phần luôn luôn biến đổi, luôn luôn di động, từng giây, từng khoảnh khắc. Như vậy, con người, sự cấu hợp của vô số những thành phần luôn luôn biến đổi, tức cũng không ngừng biến đổi. Hơn 2500 năm về trước, Ðức-Phật dạy rằng: "Hai thành phần Danh và Sắc, tâm và vật chất, ở trong trạng thái luôn luôn di động". Dựa theo Tạng-Luận (Abhidhamma Pitaka) Ðại-Ðức Nãrada giải thích sự biến đổi của vật chất như sau: "Từ ngàn xưa những nhà hiền triết Ấn-Ðộ cũng tin có một nguyên tử bất khả phân tán gọi là "Paramanu". Một hột bụi nhỏ mà ta thấy vỡn vơ trong làn ánh sáng được gọi là "Ratharenu". Một Ratharenu chia làm 36 "Tajjaris", một Tajjari chia làm 36 "Anus" và một Anus chia làm 36 "Paramanus". Vậy nếu ta chia hột bụi nhỏ kia làm 46656 phần thì một phần nhỏ bé ấy là Paramanu. Theo quan niệm thời bấy giờ thì Paramanu là đơn vị vi tế nhất của vật chất, không thể còn phân tách được nữa. Với nhãn quan siêu phàm, Ðức-Phật phân tách Paramanu và tuyên bố rằng Paramanu gồm có những năng lực tương quan gọi là Paramattha hay thành phần chánh yếu của vật chất. Những Paramattha ấy là Ðất (Pathãvi), nước (ãpo), Lửa (Tejo) và Gió (Vãyo), được gọi là tứ đại chánh yếu hay tứ đại. Tứ đại: Ðất, Nước, Lửa, Gió là những đơn vị căn bản của vật chất, luôn luôn pha lẫn với bốn chuyển hóa là màu Sắc (Vanna), Hương (Gandha), Vị (Rasa) và bản chất dinh dưỡng (Ojã)... Tứ đại và bốn chuyển hóa luôn luôn dính liền nhau và liên quan với nhau rất mật thiết. Nhưng trong một loại vật chất thành phần này có thể trội hơn thành phần khác. Thí dụ như trong đất thành phần Ðất (Pathãvi) trội hơn ba thành phần kia. Trong nước thì thành phần Nước (ãpo) trội hơn. Trong lửa thì thành phần Lửa (Tejo) trội hơn và trong không khí thì thành phần Gió (Vãyo) trội hơn. Như vậy, vật chất gồm có những năng lực và những đặc tính trong trạng thái liên tục biến đổi, luôn luôn trôi chảy như một giòng suối". Về phần tâm linh, Ðại-Ðức Nãrada viết:
Bốn loại hiện tượng tâm lý: Thọ, Tưởng, Hành, Thức, hợp với hiện tượng vật chất, sắc, tạo nên ngũ-uẩn hay năm nhóm, năm khối, năm thành phần cấu tạo một chúng sanh. Mỗi cá nhân là sự cấu tạo của năm nhóm ấy. Như vậy, thể xác con người không phải là một thực thể đơn thuần, nguyên vẹn, không biến đổi, mà là một tiến trình luôn luôn tiếp diễn. Tâm cũng luôn luôn biến đổi như một sự tiếp nối liên tục, một giòng sông luôn luôn trôi chảy và không bao giờ tồn tại giống hệt nhau trong hai khoảnh khắc kế tiếp. Mỗi giây, mỗi khoảnh khắc trôi qua thì ở một điểm nước cũng trôi đi, nhường chỗ cho nước từ một điểm khác trôi đến. Ðiều này đưa ta đến kết luận: danh-sắc hay sự cấu thành của tâm và thể xác, cấu thành chúng sanh phức tạp mà ta gọi là con người không phải là một thực thể tự mình có khả năng tồn tại vĩnh cửu mà chỉ là một tiến trình liên tục diễn tiến. Ðã là một tiến trình thì nó là cái gì luôn luôn biến đổi, không tồn tại lâu dài. Chính vì lẽ ấy mà nó là đau khổ (Dukkha). Vậy sự đau khổ dính liền với con người trong sự cấu thành con người. Chính bản chất của khối ngũ-uẩn là đau khổ (Dukkha). Ðó là sắc thái hành-khổ (Sankhãra Dukkhatã). Từ ngàn xưa, không phải chỉ con người mà tất cả chúng sanh trong ba giới bốn loài, đều mưu tìm hạnh-phúc và cố tránh đau khổ. Ðến nay, ta có thể nhìn quanh và xác nhận rằng sự kiện này vẫn còn. Và trong tương lai, có ai còn hoài nghi chăng rằng chúng ta sẽ còn tiếp tục theo đuổi mục tiêu huyền ảo ấy? Chúng ta tận lực làm đủ mọi việc và ước mong sẽ chứng nghiệm Thọ lạc, tránh khỏi Thọ khổ, tinh thần cũng như vật chất. Phần lớn chúng ta hướng ra ngoài và cố gắng đổi thay hoàn cảnh bên ngoài để thỏa mãn những sở thích của mình. Lẽ dĩ nhiên, đó chỉ là củ cải mà người ta treo lủng lẳng trước đầu con lừa. Lừa nỗ lực bước tới để táp lấy cải nhưng không bao giờ được. Khi đề cập đến vấn đề đau khổ của kiếp nhân sinh Ðại Ðức Nãrada viết: "Hạnh-phúc thật sự nằm bên trong chúng ta và không thể định nghĩa bằng những danh từ như tài sản, sự nghiệp, quyền thế, danh vọng hay chinh phục, xâm lăng, chiếm đoạt. Nếu sự nghiệp vật chất ấy được thâu đoạt bằng bạo lực, cường quyền hay bằng một phương tiện bất công nào khác, hoặc giả, nếu sự nghiệp vật chất ấy được hướng theo một chiều hướng lầm lạc hay nếu ta đem lòng luyến ái, dính mắc, trìu mến nó thì đó chính là nguồn đau khổ, lo âu và phiền muộn, cho người làm chủ nó. Ðối với người thường, Thọ hưởng dục lạc của ngũ-trần là hạnh-phúc tốt đẹp duy nhất. Chắc chắn là có thích thú nhất thời trong khi ta mơ ước, lúc Thọ hưởng và khi hồi nhớ lại những khoái lạc vật chất tương tợ. Nhưng hạnh-phúc ấy quả thật là huyền ảo và tạm bợ. Theo Ðức-Phật, không luyến ái, tức vượt lên trên mọi dục lạc là hạnh-phúc tối thượng". Hình như tất cả mọi người đều nhận thức rằng trong đời sống hạnh-phúc quả thật hiếm hoi mà đau khổ thì rất nhiều. Nhưng, trước cái khổ mỗi người, mỗi giới có một thái độ riêng. Có hạng người lý trí hóa sự khổ, dùng lý trí phân tách, suy luận, giải thích cái khổ. Có hạng người khác thần thánh hóa sự khổ, cho rằng khổ là điều kiện tất yếu để con người vươn lên như những đóa hoa sen, từ bùn nhơ nước đục vượt đến chỗ thanh khí an lành và rực rỡ nở tung trong ánh nắng ban mai. Có người, tuy cũng nhận định rằng đời là khổ nhưng cố tình lãng quên để yên tâm tận hưởng chút ít lạc thú nào của đời sống. Cũng có người nhận thấy cái khổ rồi ủ dột âu sầu, sanh ra yếm thế bi quan. Chúng ta không nên tự lường gạt mình, cố tình hiểu rằng không bao giờ có hoàn cảnh khổ đau trên thế-gian. Ðó là phương cách của chim đà điểu, khi thấy có hiểm nguy sắp đến thì vội vã cắm mỏ lùi trong cát để không thấy nữa, một phương cách lánh nguy không mang lại hiệu quả. Chúng ta phải mở rộng mắt nhìn thẳng vào vấn đề đau khổ. Khi ta chấp nhận rằng đã từ lâu mình mãi cặm cụi vát trên vai bao nhiêu ưu phiền và đau khổ thì chừng đó ta sẵn sàng buông xuống gánh nặng để khoan thai rảo bước trên con đường đưa đến tự do và hạnh-phúc thật sự trường cửu. Phật-giáo nhận cái khổ như một sự kiện sẵn có và dính liền với đời sống. Nhưng Ðức-Phật không dừng bước tại đây để buồn rầu hay để cầu nguyện cho chúng sanh. Như vị lương y, khi nhận thấy và xác nhận rằng thật sự có bệnh thì tìm phăng lên nguyên nhân của chứng bệnh và sau khi xác nhận rằng chứng bệnh có thể chữa trị, kê toa và chỉ dạy bệnh nhân phương thức trị liệu thích hợp. Cùng thế ấy, Ðức-Phật xác nhận đau khổ là chứng bệnh trầm kha của chúng sanh, ái dục là nguồn gốc của đau khổ, ái dục có thể tận diệt và phương thức diệt trừ ái dục, chấm dứt đau khổ, là Bát Chánh Ðạo gồm Giới - Ðịnh - Tuệ. Như vậy, Phật-giáo không bi quan, cũng không lạc quan, mà chỉ thực tiễn. Người Phật-tử không tự dối mình mà cho rằng thế-gian này quả thật là cảnh giới mong mỏi và hạnh-phúc vẫn phảng phất đâu đây. Phật-giáo không hề khuyên bảo chúng ta phải tin rằng mọi việc đều tốt đẹp trong kiếp sống này hay trong kiếp tới. Phật-giáo không mê hoặc con người bằng những liều thuốc ngủ: "Con hãy uống viên thuốc này, khi Tử-thần đến, liều thuốc sẽ cứu con tỉnh dậy và con sẽ sống vĩnh cửu, mãi mãi đẹp đẽ và vinh quang". Người Phật-tử có thái độ của người thấy con rắn bò dưới chân, tự nhủ rằng đây là một sinh vật nguy hiểm, phải tìm cách lánh xa nó, chớ không âu sầu, ngồi yên một chỗ để than khóc vái van, hay tự đối mình, mãi mê vui chơi việc khác và lờ hẳn thực tế. Hành động như vậy cũng không phải là đào tẩu, vì đào tẩu là lẫn trốn, sợ bỏ chạy, không dám ứng phó với những bất hạnh của đời sống. Người đào tẩu khác hẳn với người biết suy luận đang nỗ lực chạy thoát, hoặc tìm đường chạy thoát ra khỏi cảnh hiểm nguy. Hằng ngày ta có thể nhận định tánh cách vô-thường của vạn pháp. Hoa nở rồi tàn. Con người sanh ra, trưởng thành rồi chết. Mọi sự vật đều luôn luôn biến đổi. Không có cái chi tồn tại vừng bền trong hai khoảnh khắc kế tiếp. Do lý vô-thường có đau khổ. Ðau khổ là sự kiện dĩ nhiên, một thực tế của đời sống. Phật-giáo dạy chúng ta tận dụng khả năng để quan sát, suy luận và đối phó với thực tế. Trong bộ Samyutta Nikãya, Tạp A Hàm, có tích chuyện như sau: Một lần nọ, Ðức-Phật ngự tại Kosambi (Câu Ðàm Di) trong khu rừng cây Simsapa. Lúc ấy, nắm trong tay một nắm lá, Ngài ngỏ lời cùng các vị Tỳ-Khưu như sau: "Các con nghĩ thế nào, này chư Tỳ-Khưu, số lá nằm trong tay Như-Lai và số lá trên cây, trong toàn thể khu rừng này, số nào lớn hơn? - Bạch Hóa Ðức Thế-Tôn, số lá nằm trong tay Ngài hẳn thật không bao nhiêu nhưng lá trên cây, trong toàn thể khu rừng thì rất nhiều" "Cùng thế ấy, này chư Tỳ-Khưu, những gì Như-Lai chứng ngộ mà không truyền dạy thật là nhiều, như lá trên cây. Chỉ một ít những gì Như-Lai truyền dạy. Tại sao? Này chư Tỳ-Khưu, tại sao Như-Lai không truyền dạy tất cả? Này chư Tỳ-Khưu, là bởi vì những điều ấy quả thật vô-ích, không thiết yếu để có một đời sống trong sạch, tinh khiết. Những điều ấy không dẫn đến nhàm chán, dứt bỏ, chấm dứt, an tịnh, thấu đạt trọn vẹn, giác ngộ, Niết-Bàn. Vì vậy, này chư Tỳ-Khưu, Như-Lai không công bố những điều ấy. Và, này chư Tỳ-Khưu, Như-Lai công bố những gì? - Ðây là đau khổ, điều này Như-Lai công bố. - Ðây là sự khởi phát của đau khổ, điều này Như-Lai công bố. - Ðây là sự chấm dứt đau khổ, điều này Như-Lai công bố. - Ðây là con đường dẫn đến sự chấm dứt đau khổ, điều này Như-Lai công bố. Và tại sao, này chư Tỳ-Khưu, Như-Lai công bố những chân lý ấy? Bởi vì các chân lý ấy hữu ích, thiết yếu để có một đời sống trong sạch, tinh khiết, dẫn đến nhàm chán, dứt bỏ, chấm dứt, an tịnh, thấu đạt trọn vẹn, giác ngộ và Niết-Bàn. Vì vậy, này chư Tỳ-Khưu, Như-Lai công bố các chân-lý ấy". -ooOoo- |
Chân thành cám ơn Bác sĩ Nguyễn Tối Thiện đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 04-2002)
[Trở
về trang Thư Mục]
updated: 18-10-2002