|
Đức
Phật của chúng ta
Tỳ
kheo Thích Minh Châu
Lời giới thiệu. -- Đây là bài
thuyết giảng về "Đức Phật của chúng ta" một
đề tài dễ làm cho Phật tử ngạc nhiên, vì Đức Phật
của chúng ta là Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật rồi còn gì
mà phải đặt vấn đề. Nhưng vấn đề sở dĩ được đặt
ra là nhiều khi chúng ta chưa có được một cái nhìn
thấu triệt tất cả tinh tường, đức tướng, hạnh đức,
tin đức của đức Phật chúng ta. Do vậy, bài này, một
phần giúp chúng ta trả lời những thiếu sót như vậy.
-oOo-
Đề
tài thuyết giảng của chúng tôi hôm nay là: "Đức
Phật của chúng ta" chắc cũng làm cho một số Phật
tử ngạc nhiên. Chúng ta là Phật tử, thời đức Phật
của chúng ta là đức Phật Thích Ca Mâu Ni rồi, còn cần gì
thêm mà phải thuyết giảng. Nhưng chúng ta cũng phải xác
nhận, chúng ta cũng có những cái nhìn, những quan điểm
lệch lạc về đức Bổn Sư của chúng ta, không đúng với
hình ảnh mà Đức Phật muốn chúng ta hình dung về Ngài cho
đúng Chánh Pháp. Cũng nhiều khi lòng tịnh tín của chúng ta
đối với Ngài chưa đạt đến bất động, còn bị hạn
chế rất nhiều. Lại thêm, có nhiều sự kiện chúng ta trích
dẫn từ những tài liệu không được chính xác về Đức
Phật của chúng ta và vì vậy, hình ảnh của chúng ta xây
dựng về Ngài cũng có rất nhiều thiếu sót gò bó. Do vậy
chúng tôi nghĩ, một đề tài thuyết giảng nói đến Đức
Phật mà chúng ta cũng là một vấn đề rất cần thiết và
nên làm.
Việc trước kia chúng tôi là
hạn chế các tư liệu mà chúng tôi sử dụng, chỉ từ kinh
tạng Pali mà thôi. Sự hạn chế này giúp chúng tôi loại
bỏ rất nhiều sự kiện có thể đi quá xa thời đại Đức
Phật còn tại thế, vào khoảng 100 năm sau khi Đức Phật
nhập diệt. Sự hạn các tư liệu chỉ trong kinh tạng Pali
giúp chúng tôi xây dựng hình bóng bậc Đạo sư của chúng
ta, vừa có một sự nhất trí trong vấn đề nội dung, vừa
diễn tả những hình ảnh tương đối trung thực về bậc
đại Đạo Sư của chúng ta.
Đề cập đến bậc Đạo Sư
của chúng ta, trước tiên, chúng ta cần nhấn mạnh đến
vị trí có một không hai của Đức Phật - vị trí này cho
chúng ta thấy không thể có một Đức Phật thứ hai trong
suốt hiền kiếp Đức Phật tại thế - vị trí này còn giúp
chúng ta nhận rõ những đóng góp gì của Đức Phật Thích
Ca Mâu Ni cho nhân loại, cho thế giới này thật là đặc
biệt vô song, có vậy, chúng ta mới đánh giá đúng đắn
sự xuất hiện rất đặc biệt của vị Bổn Sư của chúng
ta.
Kinh Tăng Chi Bộ Kinh tập I, trang
37 ghi chép: "Sự kiện này không xảy ra, này các Tỳ
keo, không có được trong một thế giới có hai vị A la hán
Chánh đẳng giác, không trước không sau, xuất hiện một
lần. Sự kiện này không xảy ra. Và sự kiên này có xảy
ra, này các Tỳ-kheo. Trong một thế giới, chỉ có một vị
A la hán Chánh đẳng giác, xuất hiện, sự kiện này có
xảy ra".
Như vậy, chúng ta có thể nói,
trong hiền kiếp hiện tại, tại thế giới này, chỉ có
một Đức Phật, không có hai Đức Phật, có thể có 6 Đức
Phật quá khứ như Đức Phật Tỳ Bà Thi, Đức Phật Thi Khi
v.v... nhưng thuộc vào kiếp quá khứ, không thuộc kiếp
hiện tại; và có đức Phật Di Lặc (Maitriya), nhưng thuộc
vào kiếp tương lai, không thuộc kiếp hiện tại. Như vậy
vị trí của Đức Phật, Thích Ca Mâu Ni thật là độc
nhất vô nhị, ngay trong tiền kiếp của thời hiện đại
của chúng ta, và ở trong thế giới mà hiện chúng ta đang
sống. Từ nơi vị trí Phật độc nhất vô nhị này, Kinh Tăng
Chi Bộ Kinh tập I trang 29 nói rõ thêm:
"Một người, này các
Tỳ-kheo, khi xuất hiện ở đời, là xuất hiện một người
không hai, không có đồng bạn, không có so sánh, không có
tương tợ, không có đối phần, không có người ngang hàng,
không có đặt ngang hàng, bậc tối thượng giữa các loài
hai chân. Một người ấy là ai? Chính là Như Lai, bậc A la
hán, Chánh Đẳng giác; một người này khi xuất hiện ở
đời, là xuất hiện một người không hai, không có đồng
bạn, không có so sánh, không có tương tự, không có đối
phần, không có người ngang hàng, không có ngang bằng, không
có đặt ngang bằng bậc Tối thắng giữa các loài hai chân".
Như vậy Đức Phật của chúng ta
không có một ai có thể sánh bằng, không có tương tự, không
có đối phần đưa chúng ta đến một vấn đề mới, đức
Phật đứng trên vị trí gì để trở thành một bậc tối
thượng ở đời không ai có thể sánh bằng, Trung bộ kinh
III, trang 110, nói lên địa vị tối thượng này của Sa môn
Gotama tức là Đức Phật của chúng ta.
"Không thể có một vị
Tỳ-kheo, này Ba-la-môn, thành tựu một cách trọn vẹn,
một cách đầy đủ tất cả các pháp mà Thế Tôn bậc A
la hán, Chánh đẳng giác đã thành tựu. Này Bà la môn,
Thế Tôn là bậc làm khơi dậy con đường trước đây chưa
được hiện khởi làm cho biết con đường trước đây chưa
được nói, là bậc hiểu đạo, biết đạo và thiện
xảo về đạo. Và này, các đệ tử là những vị sống hành
đạo và tùy hành, và sẽ thành tựu đạo quả".
Với đoạn kinh trên, chúng ta
thấy vị trí độc nhất vô nhị của đức Phật chúng ta.
Ngài là vị đã làm khởi dậy con đường giải thoát mà trước
đây chưa từng được ai làm cho khởi dậy; Ngài làm cho
biết con đường trước đây chưa từng được ai làm cho
biết; nói lên con đường trước đây chưa từng được ai
nói. Con đường ấy là gì? Chính là tiến trình giác ngộ
giải thoát mà chính tự Ngài đầu tiên khám phá ra, tự mình
tu tập con đường ấy và tự mình giải thoát giác ngộ
nhờ đã đi trên con đường ấy. Tiến trình ấy là một
tiến trình gồm có 5 giai đoạn bắt đầu từ "Giới,
rồi đến định, tuệ, giải thoát, và giải thoát tri
kiến". Con đường ấy đã được cô động một cách
tuyệt diệu thành con đường Thánh 10 ngành bắt đầu từ
(Bát chánh đạo: chánh tri kiến..., chánh định, thêm chánh
trí và chánh giải thoát).
Đoạn kinh sau đây, trong Trung Bộ
II, trang 211 A, xác nhận rõ hơn nữa vị trí đặc biệt ấy
của Đức Phật:
"Này Bharavaja, ở đây, các
vị Sa môn, Bà la môn ấy, đối với các pháp từ trưóc
chưa từng được nghe, tự minh chứng trí hoàn toàn pháp
ấy, tự nhận rằng về căn bản phạm hạnh đã chứng đạt
ngay hiện tại thượng trí và cứu cánh bỉ ngạn nhờ thượng
trí. Ta là một trong những vị ấy".
Từ nơi đây, chúng ta không còn
lấy làm lạ khi thỉnh thoảng Đức Phật rống lên tiếng
rống con sư tử, tiếng rống làm ngoại đạo hoảng sợ,
tiếng rống nói lên thế ưu việt của chánh pháp, như được
diễn tả trong Trung Bộ Kinh tập I, trang 63: "Này các
Tỳ kheo chỉ ở đây tức chỉ cho trong Pháp và Luật do Đức
Phậat thiết lập, chỉ ở đây là đệ nhất Sa môn, là đệ
nhị Sa môn, ở đây là đệ tam sa môn, ở đây là đệ tứ
Sa môn, các ngoại đạo khác không có Sa môn".
Tiếng rống con sư tử này xác nhận rằng chỉ có tiến trình
Giới, Định, Tuệ, giải thoát, giải thoát trì kiến, được
cô động trong con đường Thánh Đạo Mười ngành do Đức
Phật thiết lập mới đào tạo ra được các đệ nhất Sa
môn, tức là các vị Dự Lưu, các đệ nhị Sa môn tức là
các vị Nhất Lai, các đệ tam Sa môn tức là các vị Bất
Lai, các đệ tử Sa môn tức là các vị A la hán.
Từ nơi lời xác chứng có tính
chất quyết định dứt khoát này, chúng ta mới hiểu câu
trả lời của Đức Phật nói với Upaka, một du sĩ ngoại
đạo đã được hỏi đức Phật là ai, khi Đức Phật đi
từ Bồ Đề đạo tràng đến vườn Lộc Uyển, để
thuyết pháp lần đầu tiên cho Kiều Trần Như và 4 người
bạn. Khi Upaka gặp Đức Phật với các căn trong sáng, vị
tu sĩ ngoại đạo liền hỏi: "Các căn của hiền giả,
thật thanh khiết! Nay hiền giả! Vì mục đích gì hiền
giả xuất gia? Ai là bậc Đạo sư của hiền giả?". Đức
Phật liền trả lời với bài kệ:
"Ta không có Đạo sư,
Bậc như Ta không có.
Giữa thế giới nhân thiên
Không có ai bằng Ta". (Trung Bộ Kinh tập I, trang 171).
Câu trả lời này khiến chúng ta
nhớ đến câu "Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc
tôn" được xem là đức Phật đã tuyên bố khi Ngài
đản sanh, và đi bảy bước. Và câu này cũng được diễn
đạt theo truyền thống Pàli với lời tuyên bố, như đã
được ghi trong Trường Bộ Kinh I trang 151: "Aggo ham
asmi lokassa, jettho' ham asmi lokassa; setto' ham asmi lokassa, Avam
antima jati natthi dàni puabban"'. Được dịch ra như
sau: "Ta là bậc tối tôn ở đời. Ta là bậc Trưởng
thượng ở đời. Ta là bậc tối thượng ở đời. Nay là
đời sống cuối cùng của Ta. Nay ta không còn tái sanh
nữa". Như vậy hai lời tuyên bố tuy từ hai truyền
thống khác nhau, nhưng cũng nói lên địa vị độc tôn của
đức Phật.
Đây không phải là một lời tuyên
bố ngạo mạn như có thể bị hiểu lầm. Lời tuyên bố này
cũng nói lên vị trí có một không hai của chánh pháp tức
là tiến trình giải thoát giác ngộ giới, định, tuệ,
giải thoát, giải thoát tri kiến. Chính tiến trình này đã
được Đức Phật thân chứng và dạy lại cho các đệ tử
Tỳ kheo, Tỳ kheo ni của Ngài tu học để được chứng
quả A la hán như Ngài.
Với Đức Phật, tự mình đã giác
ngộ, khi Ngài mới thành chánh giác. Ngài khởi lên một tư
tưởng rất khiêm tốn:
"Thật là khó khăn sống
không cung kính, không vâng lời. Vậy Ta hãy cung kính, đảnh
lễ và sống y chỉ vào một Sa môn hay Bà la môn. Với
mục đích làm cho đầy đủ giới uẩn chưa đầy đủ, làm
cho đầy đủ chưa định uẩn đầy đủ... Làm cho đầy
đủ tuệ uẩn chưa đầy đủ... Làm cho đầy đủ giải
thoát uẩn chưa đầy đủ. Ta hãy cung kính, đảnh lẽ và
sống y chỉ vào một Sa môn hay Bà la môn nào khác. Nhưng
ta không thấy một chỗ nào trong thế giới chư Thiên, Ác
ma và Phạm Thiên, giữa quần chúng Sa môn và Bà la môn, Chư
Thiên và loại người, không có một Sa môn hay Bà la môn nào
khác, với giới.. với định... với tuệ... với giải thoát
đầy đủ hơn Ta mà Ta có thể cung kính đảnh lễ và
sống y chỉ. Rồi này các Tỳ kheo. Ta suy nghĩ như sau:
'Với Pháp này mà Ta đã chơn chánh giác ngộ, Ta hãy cung kính
đảnh lễ và sống y chỉ Pháp ấy'."
Như vậy đức Phật với tâm tư
khiêm tốn muốn tìm một Sa môn để nương tựa y chỉ, nhưng
cuối cùng phải nương tựa y chỉ vào chánh pháp. Thái độ
này của Đức Phật giải thích vì sao đức Phật khuyên tôn
giả Ananda chớ có sầu muộn sau khi Đức Phật nhập diệt,
vì các đệ tử Phật luôn luôn có chánh pháp lãnh đạo, có
chánh pháp làm chỗ y chỉ, có chánh pháp làm chỗ nương
tựa. Đức Phật có thể xem là vị giáo chủ khuyên chúng
ta không nên nương tựa, ỷ lại cá nhân. Ngài chỉ khuyên
chúng ta nên y chỉ vào chánh pháp, nên nương tựa vào chánh
pháp.
Và như vậy, chúng ta thật không
lấy làm lạ khi Đức Phật được tôn xưng là bậc tối thượng
trong thế giới các loài hữu tình như kinh "Lòng
tin", số 34 , Tăng Chi II A trang 47, đã xác định:
"Dầu cho loài hữu tình
nào, này các Tỳ kheo, không chân hay hai chân, bốn chân hay
nhiều chân, có sắc hay không sắc, có tưởng hay không tưởng
hay phi tưởng phi phi tưởng. Thế Tôn bậc A la hán, Chánh
đẳng giác được xem là tối thượng. Những ai đặt lòng
tin vào đức Phật, chúng đặt lòng tin vào tối thượng.
Với những ai đặt lòng tin vào tối thượng, chúng được
quả dị thục tối thượng."
Từ nơi vị trí độc tôn này, chúng
ta cần phải tìm hiểu chính nơi đời sống của Ngài,
những kinh nghiệm gì trên bản thân Đức Phật đã giúp Đức
Phật đạt được những quả vị tối thượng. Nét độc
đáo ở nơi đây là những gì đức Phật giảng dạy đều
từ nơi bản thân kinh nghiệm của Ngai do tự Ngài thực hành
đem lại. Chớ không phải do tưởng tượng hay do một ai
truyền lại cho Ngài như đoạn kinh sau này nêu rõ, trong Tăng
Chi II, tập A trang 34 - 35, đức Phật, Đức Phật nói rõ
sự hiểu biết của mình như sau:
"Như vậy, này các Tỳ
kheo, Như Lai là vị đã thấy những gì cần thấy, nhưng
không có tưởng tượng những gì cần phải thấy, không có
tưởng tượng đối với người thấy. Đã nghe những cái
gì cần nghe, nhưng không có tưởng tượng điều đã được
nghe, không có tưởng tượng những cái gì không được
nghe, không có tưởng tượng những gì cần phải nghe, không
có tưởng tượng đối với người nghe. Đã cảm giác
những cái gì cần cảm giác, nhưng không có tưởng tượng
nhiều điều đã được cảm giác, không có tưởng tượng
những cái gì không được cảm giác, không có tưởng tượng
đối với người cảm giác. Đã thức tri những cái gì
cần thức tri, nhưng không có tưởng tượng điều đã
được thức tri, không có tưởng tượng những cái gì không
được thức tri, không có tưởng tưọng những gì cần
phải thức tri, không có tưởng tượng đối với người
thức tri. Như vậy này các Tỳ-kheo, Như Lai đối với các
pháp được thấy được nghe, được cảm giác, được
thức tri, nên vị ấy là như vậy. Lại nữa, người như
vậy, không có ai khác tối thượng hơn và thù thắng hơn.
Ta tuyên bố như vậy!".
Sau đây là những kinh nghiệm được
ghi lại về đời sống đầy dục lạc khi Đức Phật còn là
Thái tử, thái độ đức Phât đối với vấn đề sanh lão
bệnh tử va ba sự kiêu mạn của tuổi trẻ, không bệnh và
trọng sự sống.
"Này các Tỳ-kheo, Ta được
nuôi dưỡng tế nhị, tối thắng nuôi dưỡng tế nhị,
cứu cánh nuôi dưỡng tế nhị. Này các Tỳ-kheo, trong nhà
Phụ vương Ta, các hồ nước được xây lên, trong một
hồ có hoa sen xanh, trong một hồ có hoa sẽ đỏ, trong
một hồ có hoa sen trắng, tất cả phục vụ cho Ta. Không
một chiên đàn nào Ta dùng, này các Tỳ-kheo, là không từ
Kàsi đến, bằng vải Kàsi là khăn của Ta, này các
Tỳ-kheo. Bằng vải Kàsi là áo cánh; bằng vải Kàsi là
nội y, bằng vải Kàsi là thượng y. Đêm và ngày, một
lọng trắng được che chở cho Ta, để tránh xúc chạm
lạnh, nóng, bụi, cỏ hay sương. Này các Tỳ kheo, ba lâu
đài được xây dựng cho Ta, một cho mùa đông, một cái
cho mùa hạ, một cái cho mùa mưa. Và Ta này các Tỳ-kheo,
tại lâu dài mùa mưa, trong bốn tháng mưa, được những
nữ nhạc công doanh vậy, Ta không có xuống dưới
lầu..."
"Với Ta, này các Tỳ
kheo, được đầy đủ với sự giàu sang như vậy, được
cứu cánh nuôi dưỡng tế nhị như vậy, Ta suy nghĩ rằng:
"Kẻ vô văn phàm phụ tự mình bị già, không vượt
qua khỏi già, khi thấy người khác bị già, lại bực
phiền, hổ thẹn ghê tởm, quên rằng mình cũng như vậy.
Ta cũng bị già, không vượt qua khỏi già, khi ngưòi khác
già. Ta có thể bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm sao? Như
vậy thật không xứng đáng cho Ta. Sau khi quan sát về Ta như
vậy, này các Tỳ kheo, sự kiêu mạn của tuổi trẻ trong
tuổi trẻ được đoạn trừ hoàn toàn".
"Kẻ vô văn phàm phu tự
mình bị bệnh, không vượt khỏi bệnh, thấy người khác
bị bệnh, lại bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm, quên
rằng mình cũng như vậy. Ta cũng bị bệnh, không vượt
qua khỏi bệnh, khi thấy người khác bị bệnh, Ta có thể
bực phiền, hổ thẹn ghê tởm sao? Như vậy thật không
xứng đáng cho Ta. Sau khi quán sát về Ta như vậy này các
Tỳ kheo, sự kiêu mạn của không bệnh trong không bệnh
được đoạn trừ hoàn toàn".
"Kẻ vô văn phàm phu,
tự mình bị chết, không vượt khỏi chết thấy người
khác bị chết, lại bực phiền hổ thẹn, ghê tởm, quên
rằng mình cũng vậy. Ta cũng bị chết, không vượt qua
khỏi chết, khi thấy người khác chết, Ta có thể bực
phiền, hổ thẹn, ghê tởm sao? Như vậy thật không xứng
đáng cho Ta. Sau khi quán sát về Ta như vậy này các Tỳ
kheo, sự kiêu mạn của sự sống được đoạn trừ hoàn
toàn". (Tăng Chi I, 162 - 163).
Ở đoạn kinh trên chúng ta thấy
rõ đức Phật của chúng ta khi còn làm Thái tử, được hưởng
thọ dục lạc ở đời, nhưng không để cho các dục lạc
ấy làm cho say đắm si mê, vẫn ý thức được rằng sanh già
bệnh chết vẫn đang đe dọa nặng trên kiếp sống của con
người và như vậy đoạn trừ được ba sự kiêu ngạo
của tuổi trẻ trong tuổi trẻ, kiêu mạn của không bệnh
trong không bệnh, kiêu mạn của sự sống trong sự sống.
Chính nhờ ở kinh nghiệm bản thân
về những dục lạc ở đời, chính nhờ quán sát sáng
suốt về thực trạng già, bệnh, chết của cuộc đời chính
mình và tất cả mọi người, nên đức Phật của chúng ta
vượt qua sự kiêu mạn của tuổi trẻ, của không bệnh,
của sự sống, để sau này từ bỏ tất cả, xuất gia tu đạo.
Khi Ngài đã quyết định từ bỏ
ngai vàng, châu báu, vợ đẹp con thơ, tầm đạo giải thoát,
chúng ta được nghe đức Phật của chúng ta kể lại sự
học đạo của Ngài với Alàra Kàlama và Udaksa Ràmaputta, hai
vị đạo sư nổi tiếng thời bấy giờ và sau đây là kinh
nghiệm bản thân của đức Phật khi học đạo với Alàra
Kalama như kinh Thánh cầu, Trung bộ I, trang 164b đã khéo ghi
chép:
"Rồi này các Tỳ kheo,
sau một thời gian, khi Ta còn trẻ, niên thiếu, tóc đen nhánh,
đầy đủ huyết khí của tuổi thanh xuân, trong thời vàng
son của cuộc đời, mặc dầu cha mẹ không bằng lòng, nước
mắt đầy mặt, than khóc, Ta cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà
sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Ta
xuất gia như vậy, đi tìm cái gì chi thiện, tìm cầu vô
thượng tối thắng an tịnh, hướng đến tịch tịnh. Ta
đến chỗ Alàra Kàlama ở, khi đến xong liền thưa với Alàra
Kàlama: "Hiền giả Kàlama, tôi muốn sống phạm hạnh
trong Pháp và Luật này".
"Này các Tỳ kheo, được
nghe nói vậy, Alàra Kàlama nói với Ta: "Này Tôn giả,
hãy sống (và an trú) Pháp này là như vậy, khiến kẻ có
trí, không bao lâu vị Bổn sư của mình chỉ dạy, tự
trị, tự chứng, tự đạt và an trú" Này các Tỳ
kheo, và không bao lâu Ta đã thông suốt Pháp ấy một cách
mau chóng... "Này các Tỳ kheo, Ta suy nghĩ như sau:
"Alàra Kàlama tuyên bố Pháp này không phải chỉ vì lòng
tin. Sau khi tự trị, tự chứng, tự đạt, Ta mới an trú.
Chắc chắn Alàra Kàlama biết Pháp này, thấy Pháp này
rồi mới an trú".
"Này các Tỳ kheo, rồi
Ta đi đến chỗ Alàra Kàlama ở, sau khi đến, Ta nói với
Alàra Kàlama: "Hiền giả Kàlama, cho đến mức độ nào,
Ngài tự trị, tự chứng tự đạt và tuyên bố Pháp này?"
Này các Tỳ kheo, được nói vậy, Alàra Kàlama tuyên bố
về vô sở hữu xứ. Rồi các Tỳ kheo, Ta suy nghĩ: "Không
phải chỉ có Alàra Kàlama có lòng tin. Ta cũng có lòng tin.
Không phải chỉ có Alàra Kàlama mới có tinh tấn. Ta cũng
có tinh tấn. Không phải chỉ có Alàra Kàlama mới có
niệm. Ta cũng có niệm. Không phải chỉ có Alàra Kàlama
mới có định. Ta cũng có định. Không phải chỉ có Alàra
Kàlama mới có tuệ. Ta cũng có tuệ. Vậy Ta hãy cố gắng
chứng cho được Pháp mà Alàra Kàlama tuyên bố: "Sau
khi tự trị, tự chứng, tự đạt, Ta an trú"
"Rồi này các Tỳ kheo,
không bao lâu, khi tự trị, tự chứng, tự đạt Pháp ấy
một cách mau chóng. Ta an trú. Rồi này, các Tỳ kheo, Ta đi
đến chỗ Alàra Kàlama ở, sau khi đến, Ta nói với Alàra
Kàlama: "Này hiền giả Kàlama có phải hiền giả đã
tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố Pháp này đến
mức độ như vậy" - "Vâng hiền giả. Tôi đã
tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố Pháp này đến
mức độ như vậy" - "Này hiền giả, Tôi cũng đã
tự trị, tự chứng, tự đạt và tuyên bố Pháp này đến
mức độ như vậy". "Thật khéo lợi ích thay cho
chúng tôi, khi chúng tôi được thấy một đồng Phạm
hạnh như tôn giả Pháp mà tôi tự trì, tự chứng, tự đạt
và tuyên bố, chính Pháp này hiền giả tự tri, tự
chứng, tự đạt và an trú; Pháp này hiển giả tự tri,
tự chừng, tự đạt và an trú; chính Pháp ấy tôi tự
tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố. Pháp mà tôi biết,
chính Pháp ấy hiền giả biết; Pháp mà hiền giả biết,
chính Pháp ấy Tôi biết. Tôi như thế nào, hiền giả là
như vậy; hiền giả như thế nào, Tôi là như vậy. Nay hãy
đến đây, hiền giả! Hai chúng ta hãy chăm sóc hội chúng
này".
"Như vậy, này các
Tỳ-kheo, Alàra Kàlama là Đạo sư của Ta, lại đặt Ta, đệ
tử của vị ấy ngang hàng với mình, và tôn sùng Ta với
sự tôn tối thượng. Này các Tỳ kheo, rồi Ta tự suy nghĩ:
"Pháp này không hướng đến yểm ly, không hướng đến
ly tham, không hướng đến đoạn diệt, không hướng đến
an tịnh, không hướng đến đoạn diệt, không hướng đến
an tịnh, không hướng đến thượng trí, không hướng đến
giác ngộ, không hướng đến Niết Bàn, mà chỉ đưa đến
giác ngộ, không hướng đến Niết bàn, mà chỉ đưa đến
sự chứng đạt vô sở hứu xứ" Như vậy, này các
Tỳ kheo, Ta không tôn kính Pháp này và chán nản Pháp ấy,
Ta bỏ đi".
Tiếp đến là nếp sống khổ
hạnh, Đức Phật của chúng ta tự mình hành trì luôn trong
sáu năm trên kinh nghiệm bản thân của Ngài, như đức
Phật đã diễn tả: "Này Sariputta, Ta đầy đủ bốn
hạnh: về khổ hạnh Ta khổ hạnh đệ nhứt; về bần uế,
Ta bần uế đệ nhất; về yểm ly, Ta yểm ly đệ nhất;
về độc cư, Ta độc cư đệ nhất" (Trung Bộ I, trang
76b).
Đoạn văn sau đây diễn tả
hạnh ăn ít của Đức Phật chúng ta, chính những hạnh này
khiến Thế Tôn gầy mòn chỉ còn da bọc xương, như đã
được diễn tả trong các bức tượng Tuyết Sơn, khắc ghi
lại sự khổ hạnh đặc biệt của Thế Tôn (trong kinh Sư
Tử Hống, Trung Bộ I, trang 80).
"Vì Ta ăn quá ít, tay chân
Ta trở thành những cộng cỏ hay những đốt cây leo khô héo.
Vì Ta ăn quá ít, hàn trôn của Ta trở thành như móng chân
con lạc đà. Vì Ta ăn quá ít, cái xương sống phô bày
của Ta giống như một chuối banh. Vì Ta ăn quá ít, cái xương
sườn gầy mòn của Ta giống nư rui cột một nhà sàn hư
nát. Vì Ta ăn quá ít, nên con người của Ta long lanh nằm
sâu thẳm trong lỗ con mắt, giống như ánh nước long lanh
nằm sâu thẩm trong một giếng nước thâm sâu. Vì Ta ăn
quá ít, da đầu Ta trở thành nhăn nhiu khô cằn như trái bí
đắng màu trắng, cắt trước khi chín, bị cơn gió nóng làm
cho nhăn nhíu khô cằn".
"Này Sariputta, nếu Ta nghĩ:
"Ta hãy rờ da bụng", chính xương sông bị Ta nắm
lấy. Nếu Ta nghĩ: "Ta hãy rờ xương sống; chính da
bụng bị Ta nắm lấy vì ta ăn quá ít ". Này Sariputa,
nếu Ta muốn xoa dịu thân ta, lấy tay xoa bóp chân tay,
thời này Sariputta trong khi Ta lấy tay xoa bóp chân tay, các
lông tóc hư mục rụg khỏi thân Ta, vì ta ăn quá ít".
Đức Phật của chúng ta đã tự mìn hành tri khổ hạnh, và
sau sáu năm hành trì không có kết quả, Ngài cương quyết
từ bỏ khổ hạnh và bắt đầu hướng đến hành thiền
như đoạn kinh sau này nêu rõ:
"Này Aggivessana, rồi Ta
suy nghĩ như sau: "Thưở xưa có những Sa môn, Bà la môn,
và tương lai có những Sa môn, Bà la môn; và hiện tại có
những Sa môn, Bà la môn thình lình cảm thọ những cảm
thọ, những cảm giác chói đau, khổ đau, khốc liệt.
Những sự đau khổ này là tối thượng, không thể có gì
hơn nữa, vẫn không chứng được pháp thượng nhân, trí
kiến thù thắng, xưng đáng bậc Thánh. Hay có đạo lộ nào
khác hơn đưa đến giác ngộ?".
"Này Aggivessana, rồi Ta
suy nghĩ như sau: Ta biết trong khi phụ thân Ta thuộc giòng
Sakka đang cày, và Ta đang ngồi dưới bóng mát cây Diêm phù
đề. Ta ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú thiền
thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có
tầm có tứ. Khi an trú như vậy, Ta nghĩ: "Đạo lộ này
có thể đưa đến giác ngộ chăng? Và này Aggivessana,
tiếp theo ý niệm ấy, ý thức này khởi lên nơi Ta. Đây
là đạo lộ đưa đến Giác ngộ" (Trung bộ I, trang
240b). Từ nơi kinh nghiệm bản thân này, Đức Phật của
chúng ta từ bỏ khổ hạnh, hành trì thiền định, chứng
được sơ thiền, thiền thứ hai, thiền thứ ba, thiền
thứ tư, chứng được túc mạng minh, thiên nhãn minh và
"với tâm định tỉnh, thuần tịnh, trong sáng, không
cấu nhiễm, không phiền não, như nhuyễn, dễ sử dụng,
vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta hướng Tâm đến lâu
tận trí. Ta biết như thật: "Đây là khổ", Ta
biết như thật: "Đây là khổ tập". Ta biết như
thật: "Đây là khổ diệt". Ta biết như thật:
"Đây là con đường đưa đến khổ diệt". Ta
biết như thật: "Đây là các lậu hoặc", Ta biết
như thật: "Đây là lâu hoặc tập khởi". Ta biết
như thật: "Đây là lâu hoặc diệt". Ta biết như
thật: "Đây là con đường đưa đến lâu hoặc
diệt". Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như
vậy, tâm của Ta thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu
lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự tâm đã
giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: "Ta đã
giải thoát". Ta đã biết: "Sanh đã tận, Phạm
hạnh đã thành, những việc nên đã làm, không còn trở
lại trạng thái này nữa" (Trung bộ I, 248a-248).
Như vậy, cùng với kinh nghiệm
bản thân, từ bỏ khổ hạnh, tu tập thiền định, phát
triển trí tuệ, bậc Đạo sư của chúng ta thành tựu chánh
đẳng chánh giác và trở thành đức Phật.
Sau khi thành đạo, đức Phật chúng
ta luôn luôn đi hoằng hóa, thuyết pháp độ sanh. Tuy vậy,
Ngài vẫn bị xuyên tạc hiểu lầm. Và Sunakkhatta đã hiểu
lầm về đức Phật của chúng ta như sau: "Sa môn
Gotama không có pháp thượng nhân, không có trì kiến thù
thắng, xứng đáng bậc Thánh, Sa môn Gotama thuyết pháp, pháp
ấy tự mình tạo ra, do suy luận tạo thành, tùy thuận
trắc nghiệm và thuyết cho mục tiêu đặc biệt, có khả năng
hướng thượng, có thể dẫn người thực hành diệt tận
khổ đau' (Trung bộ I trang 69).
Đức Phật với nhận thức sáng
suốt của Ngài, chấp nhận phần hai của lời phê bình
của Sunakkhatta là đứng đắn, vì pháp Phật dạy, không do
ai dạy Ngài, chỉ do tự bản thân tu tập, chính do tự suy
luận, chính do tùy thuận trắc nghiệm của Ngài xây dựng lên,
và pháp ấy dạy cho một mục tiêu đặc biệt là đoạn
trừ khổ đau của chúng sanh, và có khả năng hướng thượng
giúp chúng sanh đoạn tận tham sân si, chấm dứt khổ đau.
Nhưng Đức Phật không chấp
nhận phần đầu lời phê bình của Sunakkhatta khi Sunakkhatta
nói Ngài không có pháp thượng nhân, không có trì kiến thù
thắng xứng đáng bậc Thánh. Ở đây, đức Phật mới
rống, tiếng rống con sư tử, xác nhận đức Phật có được
4 pháp truyền thống. Ngài là vị có đủ 10 danh hiệu là
Thế Tôn, bậc A la hán, chánh đẳng giác, minh hạnh túc,
thiện thệ, hiểu biết thế gian, bậc vô thượng, điều
ngự những ai đáng được điều ngự, bậc Thầy chư Thiên
và loài người, Phật, Thế Tôn. Và Ngài chứng được
thần túc thông, thiên nhĩ thông và tha tâm thông:
Như Lai là vị có được mười
Như Lai lực, có bốn vô sở úy. Như Lai như thật biết
sự kiện có xảy ra là có xảy ra, sự kiện không xảy ra
là không xảy ra. Như Lai như thật biết quả báo tuỳ
thuộc sở do, tuỳ thuộc sở nhân của các hạnh nghiệp
quá khứ, vị lai, hiện tại. Như Lai như thật biết con
đường đưa đến tất cả cảnh giới. Như Lai như thật
biết thế giới với nhiều chủng loại sai biệt. Như Lai
như thật biết chí hướng sai biệt của một loài hữu tình.
Như Lai như thật biết các căn thượng hạ của loài người,
của các loài hữu tình; Như Lai như thật biết sự tập
nhiễm, sự thanh tịnh, sự xuất khởi của các thiền
chứng về thiền và giải thoát, về định. Như Lai nhớ
đến các đời sống quá khứ; với thiên nhãn thuần
tịnh siêu nhân, thấy sự sống và sự chết của chúng
sanh Như Lai nhờ đoạn trừ các lậu hoặc tự mình chứng
trí, chứng ngộ, thành tựu và an trú ngay trong hiện tại,
vô lậu tâm giải thoát, tuệ tâm giải thoát. Chính nhờ mười
Như Lai lực này, Như Lai tự nhận cho mình địa vị ngưu
vương, rống lên tiếng rống con sư trong các hội chứng và
chuyển pháp luân (Trung bộ III, trang 70A- 71A).
Như Lai có được bốn vô
sở uý, tức là bốn điều không sợ hãi, chính nhờ thành
tựu bốn pháp này. Như Lai tự nhận cho mình địa vị ngưu
vương, rống tiếng rống con sư tử trong hội chúng và
chuyển pháp luân: "Thế nào là bốn? Này Sariputta, Ta
thấy không có lý do gì, một Sa môn, Bà la môn, chư Thiên,
Ma vưong, Phạm Thiên hay một ai ở đời có thể chỉ trích
Ta đúng pháp rằng: "Các pháp này chưa được chứng
ngộ hoàn toàn mà Ngài tự xưng là đã chứng ngộ hoàn toàn."
Này Sariputta, vì Ta không thấy có lý do gì như vậy, nên
Ta sống, đại được an ổn, đạt được không sợ hãi,
đạt được vô uý. Này Sariputta, Ta không thấy có lý do gì,
một Sa môn, Bà la môn, chư Thiên, Ma vương, Phạm Thiên hay
một ai ở đời có thể chỉ trích Ta đúng pháp rằng:
"Các lậu hoặc này chưa được đoạn trừ mà Ngài
tự xưng đoạn trừ...". Những pháp này được Ngài
gọi là các chướng ngại pháp, khi được thực hành
thời không có gì là chướng ngại pháp cả... Này
Sariputta, Ta thấy không có lý do gì một Sa môn, Bà la môn,
Chư Thiên, Ma vương, Phạm Thiên hay một ai ở đời có
thể chỉ trích Ta đúng pháp rằng: "Pháp do Ngài
thuyết giảng, không đưa đến một mục tiêu đặc biệt,
không có khả năng hướng thượng, không có thể dẫn người
thực hành đến diệt tận khổ đau". Này Sariputta, vì
Ta thấy không có lý do gì như vậy, nên Ta sống đạt được
an ổn, đạt được không sợ hãi, đạt được vô uý
(Trung bộ I, trang 71 B).
Như vậy, với 4 pháp truyền
thống, với 10 Như Lai lực, với 4 vô sở úy, Đức Phật
của chúng ta xác chứng Ngài có pháp thượng nhân, có tri
kiến thù thắng của bậc Thánh, xứng đáng với địa vị
Ngưu vương, rống tiếng rống con sư tử trong các hội
chứng và chuyển pháp luân.
Đức Phật của chúng ta sở dĩ
chiếm một địa vị ưu thế so sánh với các ngoại đạo
đương thời là vì Ngài là vị đầu tiên để lại chúngta
một truyền thống kế thừa rất đặc biệt, khác với các
ngoại đạo cổ xưa, và truyền thống ấy mãi cho đến ngày
nay, sau hơn 2.500 năm có mặt trên thế giới này, vẫn còn
được tôn trọng, tiếp nối và truyền thừa.
Kinh Makhàdeva 83, Trung bộ kinh II
trang 75 đề cập đến truyền thống của vua Makhadeva, vị
vua này khi sợi tóc bạc đầu tiên hiện ra trên đầu của
Ngài, liền giao ngôi báu cho hoàng tử, tự mình xuất gia tu
đạo. Vua Makhedeva lại dặn hoàng tử lên ngôi trị vì cho
đến khi sợi tóc bạc đầu tiên mọc lên thời liền trao
ngôi báu cho hoàng tử của mình, còn mình thời xuất gia tu
đạo. Vua Makhedeva lại dặn hàng tử lên ngôi trì vì cho đến
khi sợi tóc bạc đầu tiên mọc lên thời liền trao ngôi báu
cho hoàng tửi của mình, còn mình thời xuất gia tu đạo.
Vua Makhedeva dặn dò phải giữ gìn truyền thống này đừng
cho gián đoạn. Tuy vậy, truyền thống của vua Makhadeva được
truyền cho đến khi vua Nemi là vị vua cuối cùng gìn giữ
truyền thống này, con của vua Nemi là Kalàrajanaka lại không
tiếp tục truyền thống này, không chịu xuất gia khi sợi tóc
đầu tiên mọc trên đầu của mình và do vậy truyền
thống của Makhàdeva bị chấm dứt.
Nhưng truyền thống của Đức
Phật của chúng ta lại khác. Chính Đức Phật xác nhận như
sau trong Trung bộ I trang 82A:
"Này Ananda, truyền
thống ấy của Makhàdeva không đưa đến yếm ly, ly tham,
đoạn diệt, tịch tịnh, thượng trí, giác ngộ, Niết Bàn.
Và này Ananda, thế nào là truyền thống tốt đẹp được
Ta thiết lập và truyền thống ấy đưa đến yểm ly ly
tham, đoạn diệt, tịch tịnh, thượng trí, giác ngộ,
Niết bàn? Chính là Thánh đạo tám Ngành này, tức là chánh
tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh
mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Này Ananda,
đây là truyền thống tốt đẹp được Ta thiết lập, và
truyền thống ấy đưa đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt,
tịch tịnh, thượng trí, giác ngộ, Niết bàn. Này Ananda,
về vấn đề này, Ta nói như sau: "Truyền thống tốt
đẹp này do Ta thiết lập, hãy tiếp tục duy trì. Các người
chớ có thành tối hậu sau Ta". Này Anada, khi hai người
còn tồn tại, và có sự dứt đoạn, người ấy là người
tối hậu vậy. Này Ananda, Ta nói với người: "Truyền
thống tốt đẹp này do Ta thiết lập, các người hãy
tiếp tục duy trì, Các người chớ có thành người tối
hậu sau ta" (Trung bộ II, 82 A).
Như vậy quí vị đã thấy
truyền thống kê thừa mà Đức Phật đã để lại cho chúng
ta, chúng ta đã tiếp tục thừa kế trải hơn 2.500 năm
lịch sử, và cho đến nay, truyền thống kế thừa ấy vẫn
được tiếp tục.
Để tìm hiểu hơn nữa về bậc
Đạo sư của chúng ta, chúng ta cần phải có một ý thức rõ
ràng, Đức Phật là ai, Đức Phật đã tự mình diễn tả
về mình như thế nào và Đức Phật đã được các đệ
tử của mình và các ngoại đạo đề cao như thế nào?
Những tư liệu đó sẽ giúp chúng ta hiểu được đức
Phật của chúng ta rõ ràng chính xác hơn và đánh giá được
những đóng góp mà bậc Đạo sư đã đem lại cho nhân
loại và cho Thế giới.
Một vấn đề có thể làm nhiều
người thắc mắc trong quá khứ cũng như trong hiện tại, là
đức Phật là ai? Ngài là thiên thần chăng? Thiên nhân chăng?
Ngài là người như chúng ta chăng? Kinh Tăng Chi tập II A
trang 51 ghi chép như sau:
"Bà la môn Dona thấy dấu chân
đức Phật có dấu bánh xe (Pháp Luân) với đầy đủ tất
cả chi tiết, khi Đức Phật đi trên con đường giữa
Ukkttha và Setabbya, liền suy nghĩ đây không phải là dấu chân
của loài người, nên đến gần đức Phật và hỏi: "Có
phải Ngài sẽ là vị Tiên, Ngài sẽ là Càn thát bà, Ngài
sẽ là Dạ Xoa, Ngài sẽ là loài người?" Với bốn câu
hỏi này, Đức Phật tuần tự trả lời: "Ta sẽ không
phải là Tiên, Ta sẽ không phải là Càn thát bà, Ta sẽ không
phải là Dạ Xoa, Ta sẽ không phải là người?
Câu trả lời làm cho Bà la môn
Dona ngạc nhiên và chúng ta cũng dễ hiểu, vì nếu Đức
Phật trả lời: "Ta sẽ là chư Thiên... hay Ta sẽ là loài
người", tức là đức Phật còn phải tái sinh, còn
phải sinh tử luân hồi. Cho nên Đức Phật mới trả lời:
"Ta sẽ không phải là Chư Thiên, Ta sẽ không là Càn thát
bà, Ta sẽ không phải là Dạ xoa, Ta sẽ không phải là Người".
Những câu trả lời ây đã làm cho Bà la môn Dona ngạc nhiên
khiến phải hỏi tiếp: "Vậy sở hanh của Ngài là gì?
Và tôn giả sẽ là gì?". Câu trả lời tiếp của Đức
Phật rất là đặc biệt:
"Này Bà la môn, đối
với những người chưa đoạn tận các lậu hoặc, Ta có
thể là Chư Thiên với các lậu hoặc đã đoạn tận, được
chặt đứt từ gốc rễ, được làm thành như cây Ta-la,
được làm cho không thể hiện hữu được làm cho không
thể sanh khởi trong tương lai. Này Bà la môn, đối với
những người chưa đoạn tận các lậu hoặc, Ta có thể là
Càn thát bà, Ta có thể là Dạ Xoa, Ta có thể là loài người,
với các lậu hoặc đã đoạn tận, được chặt đứt
từ gốc rễ, được làm thành như cây Ta la, được làm
cho không thể hiện hữu, được làm cho không thể sanh
khởi trong tương lai...".
Như vậy, tùy thuộc chúng sanh
được đề cập đến, đối với chúng sanh là chư Thiên chưa
đoạn tận các lậu hoặc, Đức Phật có thể là chư Thiên
nhưng với các lậu hoặc đã đoạn tận, không còn sanh tử
luân hồi. Đối với loài người chúng ta chưa đoạn tận các
lậu hoặc, Đức Phật có thể là người, nhưng là một con
người đã đọan tận các lậu hoặc. Nói một cách khác,
dầu thuộc loại chúng sanh hữu tình nào đang còn có lậu
hoặc, đang còn sanh tử luân hồi, Đức Phật có thể là chúng
sanh ấy, nhưng với các lậu hoặc đã đoạn tận. Chúng ta
là người, Đức Phật đối với chúng ta là người, chỉ có
sự sai khác: Đức Phật là ngưòi đã đoạn tận các lậu
hoặc.
Rồi Đức Phật cho chúng ta một
thí dụ xác định rõ ràng vị trí của Ngài trong thế
giới loài người:
"Ví như, này Bà la môn,
bôn sen xanh, bông sen hồng hay bông sen trắng sanh ra trong nước,
lớn lên trong nước, vươn lên khỏi nước và đứng
thẳng, không bị thấm ướt. Cũng vậy, Bà la môn, sanh ra
trong đời, lớn lên trong đời, Ta sống chinh phục đời,
không bị đời thấm ướt. Này Bà la môn, Ta là Phật, hãy
như vậy thọ trì...".
Sau đây là một số lời tán thán
hay định nghĩa về bậc Đạo Sư của chúng ta, những lời
này được chính Đức Phật xác chứng:
"Này Sariputta, những ai nói
một cách chơn chánh về Ta, sẽ nói như sau: "Một vị
hữu tình không bị ai chi phối, đã sanh ra ở đời, vì
lợi ích, vì hạnh phúc của chúng sanh, vì lòng thương tưởng
cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho Chư
Thiên và loài người" (Trung bộ I, 83). Tiếp đến là
lời vị đệ tử đã chứng quả A la hán nói lên lời tán
thán bậc đạo sư của mình: "Thế Tôn đã giác ngộ
Ngài thuyết pháp để giác ngộ. Thế Tôn đã điều
phục, Ngài thuyết pháp để điều phục. Thế Tôn đã
tịch tịnh, Ngài thuyết pháp để vượt qua. Thế Tôn đã
chứng Niết Bàn, Ngài thuyết pháp để chứng Niết Bàn..."
(Trung bộ I, trang 237).
Sau đây là lời tán thán của Tôn
giả Udâyi đối với bậc Đạo Sư của mình: "Thế
Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng
ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp
cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ
nhiều bất thiện pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là
vị đã mang lại nhiều thiện pháp cho chúng ta" (Trung
bộ I, trang 448).
Kinh Tăng chi I, trang 28, xác nhận
sự xuất hiện của bậc Đạo Sư của chúng ta là một sự
xuất hiện đem lại hạnh phúc cho đa số:
"Một người, này các
Tỳ kheo khi xuất hiện ở đời, sự xuất hiện đem lại
hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, vì lòng thương tưởng
cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư
Thiên, và loài người. Một người ấy là ai? Chính là
Thế Tôn, bậc A la hán. Chánh đẳng giác. Chính một người
này, này các Tỳ kheo, khi xuất hiện ở đời, sự xuất
hiện đem lại hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, vì
lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc,
vì an lạc cho chư Thiên và loài người".
"Sự xuất hiện của
một người, này các Tỳ kheo, khó gặp được ở đời.
Của người nào? Của Như Lai, bậc A la hán, Chánh đẳng
giác. Sự xuất hiện cuả một người này, này các Tỳ
kheo, khó gặp ở đời".
"Một người này, này các
Tỳ kheo, khi xuất hiện ở đời, là xuất hiện một người
vi diện. Một người ấy là ai? Chính là Thế Tôn, bậc A
la hán, Cháng đẳng giác . Chính một người này, này các
Tỳ kheo, khi xuất hiện ở đời là một sự xuất hiện
vi diệu".
"Sự mệnh chung của
một người, này các Tỳ kheo, được đa số thương
tiếc. Của một người nào? Của Như Lai, bậc A la hán, Chánh
đẳng giác. Sự mệnh chung của một người này, này các
Tỳ kheo, đươc đa số thương tiếc"
Trong khi các bậc Đạo sư khác,
giới không thanh tịnh, mạng sống không thanh tịnh, thuyết
pháp không thanh tịnh, trả lời pháp không thanh tịnh, tri
kiến không thanh tịnh, thời bậc Đạo sư của chúng ta
thật là tuyệt diệu về cả 5 phương diện này, như Tăng
Chi II, quyển B miêu tả:
"Này Mossallàna, Ta có
giới thanh tịnh và Ta tự rõ biết: "Giới của Ta
thanh tịnh, trong sáng, không có uế nhiễm. Các đệ tử không
có che chở Ta về giới. Mạng sống của Ta thanh tịnh, Ta
tự rõ biết. Mạng sống của Ta thanh tịnh trong sáng, không
có uế nhiễm, các đệ tử không có che chở Ta về mạng
sống. Ta không có chờ đợi các đệ tử che chở Ta về
mạng sống. Thuyết pháp của Ta thanh tịnh, Ta tự rõ
biết. Thuyết pháp của Ta thanh tịnh trong sáng, không có
uế nhiễm. Các đệ tử không có che chở Ta về thuyết pháp.
Ta không có chờ đợi các đệ tử che chở Ta về thuyết
pháp. Các câu trả lời của Ta thanh tịnh, trong sáng, không
có uế nhiễm. Các đệ tử không có che chở Ta về các câu
trả lời. Ta không chờ đợi các đệ tử che chở Ta về
các câu trả lời. Tri kiến của Ta thanh tịnh, trong sáng,
không có uế nhiễm. Các đệ tử không có che chở Ta về
tri kiến. Ta không có chờ đợi các đệ tử che chở Ta
về tri kiến".
Cuối cùng, chúng ta được nghe Đức
Phật của chúng ta nói đến sự ưu ái của Ngài đối với
các đệ tử của Ngài, một lòng ưu ái nhiệt tình chơn chánh,
luôn luôn hướng dẫn các đệ tử của mình trên con đường
giải thoát và giác ngộ:
"Này Ananda, những gì
vị đạo sư cần phải làm, vì lòng từ mẫn, mưu tìm
hạnh phúc cho các đệ tử, những điều ấy đã được
Ta làm, vì lòng từ mẫn của Ta đối với các người này,
này Ananda, đây là những gốc cây, đây là những khoảng
trống. Hãy tu thiền, này Ananda, chớ có phóng dật, chớ có
hối hận về sau. Đây là lời dạy của Ta cho các người".
Nói tóm lại, tìm hiểu và luận
bàn về đức Phật của chúng ta, thời không bao giờ có
thể chấm dứt, làm sao chúng ta có thể nói lên đầy đủ
thân thế sự nghiệp của vị Bổn sư chúng ta, nói lên về
tướng đức, giới đức, uy đức, trí đức và quả đức
của Ngài cho nên tôi xin kết luận bài giảng của chúng tôi
hôm nay với hai nhận xét mà chúng tôi xem là ưu việt, trong
sự nghiệp hoằng pháp dộ sanh cuả Đức Phật chúng ta.
Trước hết, Đức Phật của chúng
ta, dầu cho có chứng được thần túc thông, tha tâm thông,
thiên nhĩ thông, đã không dùng thần thông để giáo hóa chúng
sanh. Ngài lựa pháp môn giáo hóa để hóa độ chúng sanh. Nói
cho đúng hơn, Ngài dùng thần thông một cách hết sức dè
dặt, tế nhị, về hết sức kín đáo.
Trong suốt 45 năm thuyết pháp và
như chúng ta được thấy rõ ngang qua các bài kinh được để
lại, Ngài đi bộ từ làng này qua làng khác, từ thị trấn
này qua thị trấn khác, đi vào nhà, đi vào giảng đường,
đi vào hội chúng, với uy nghi bình thường của một bậc
Đạo sư đi truyền đạo và đi giảng đạo. Ngài không dùng
thần thông, phép lạ để làm hoa mắt, để làm choáng váng
những người đến với Ngài, Ngài chỉ dùng lời nói từ hòa
khiêm tốn, thuyết pháp độ sinh; Ngài chỉ dùng thân giáo và
khẩu giáo để giáo hóa chúng sanh. Cử chỉ, hành động
của Ngài khiêm tốn và tế nhị đến nỗi Pukkasati, một đệ
tử của Ngài, gặp Ngài mà vẫn không biết Ngài là Đức
Phật. Ngài tế nhị và khiêm tốn đến nỗi người giữ vườn
cho ba vị tôn giả Anuruddha, Kimbila và Ananda không biết ngài
là Đức Phật, đã ngăn cản Ngài không cho vào thăm ba vị
đại đệ tử của Ngài.
Chính thái độ hóa thần thông để
giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng
pháp mà Đức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ
sanh.
Ưu điểm thứ hai trong sứ mệnh
hoằng pháp độ sanh của Đức Phật chúng ta là Ngài luôn
luôn giữ đúng vị trí của một bậc Đạo sư đối với các
đệ tử. Trong kinh Ganaka Moggalana, Trung bộ kinh, Bà la môn
Ganaka hỏi Đức Phật: "Có phải khi sa môn Gotama giảng
dạy như vậy, thời tất cả đệ tử của Ngài đều
chứng được cứu cánh Niết Bàn?" Đức Phật trả
lời là một số chứng được cứu cánh Niết Bàn, một
số không chứng được.
Đức Phật trả lời một cách
rất nhẹ nhàng, khiêm tốn nhưng cũng rất thiết thực và
tuyệt diệu, giữ đúng vị trí của bậc Đạo sư đối
với các đệ tử:
"Cũng vậy, này Bà la môn,
trong khi có một Niết Bàn, có một con đường đưa đến
Niết Bàn và trong khi có mặt Ta là người chỉ đường.
Nhưng các đệ tử của Ta, được Ta khuyến giáo như
vậy, giảng dạy như vậy, một số chứng được cứu cánh
Niết Bàn, một số không chứng được. Ở đây, này Bà
la môn, Ta làm gì được? Như Lai chỉ là người chỉ đường".
(Trung bộ kinh III, trang 105).
Câu trả lời của Đức Phật chúng
ta nói lên trách nhiệm của một bậc Đạo sư là trình bày
giảng dạy con đường giải thoát giác ngộ chớ không
phải thay thế đệ tử tu hành giúp cho các đệ tử. Thái
độ của đức Phật trong tư cách của môt bậc Đạo sư cũng
nói lên lòng tin tưởng của mình đối với khả năng hiểu
biết và tu chứng của các đệ tử của mình. Ngài chỉ
dạy con đường, các đệ tử phải tự mình dấn bước trên
con đường ấy. Chính nhờ Đức Phật ý thức rõ ràng vị
trí của bậc Đạo sư và vị trí của người đệ tử, nên
Đức Phật đã thành công rực rỡ trong sứ mệnh hoằng pháp
độ sanh của Ngài.
Với hai nhận xét trên, chúng tôi
xin kết thúc bài giảng của chúng tôi hôm nay về bậc Đạo
Sư của chúng ta, với hy vọng rằng bài giảng của chúng tôi
giúp các Phật tử hiểu rõ hơn về sứ mệnh hoằng pháp độ
sanh cuả Đức Phật chúng ta, để chúng ta, những đệ tử
của Ngài, xuất gia cũng như tại gia, dầu đã trải qua 2500
năm lịch sử, vẫn tin tưởng và mạnh mẽ tiến bước trên
con đường giác ngộ va giải thoát mà bậc Đạo sư đã
giảng dạy./.
Nam mô
Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Tỳ kheo Thích Minh Châu
Sài Gòn, ngày 12-12-1988
Chân thành cám ơn anh HDC đã có
thiện tâm giúp đánh máy lại quyển sách này (11/99). |