|    
             | 
      
        Quán 
        Niệm Hơi Thở 
        (Anapana Sati)
        Bình 
        Anson
         
        
           Ghi chú: Các 
          đoạn chính của bài nầy được trích dịch từ một quyển cẩm nang tu thiền 
          của ngài thiền sư U Acinna, người Miến Điện ("Light of Wisdom", 
          W.A.V.E., Malaysia, 1996). 
         
        -ooOoo- 
        Các 
        bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana 
        sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, 
        hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên. Có người hỏi là 
        ta nên định tâm vào hơi thở hay sự chạm xúc của hơi 
        thở ? Câu trả lời là chỉ nên định tâm vào hơi 
        thở. Hơi thở chạm xúc vào lỗ mũi hay môi trên là 
        nơi dễ theo dõi nhất. Sự chạm xúc là một đề tài 
        thiền quán khác biệt, thuộc về pháp môn quán danh (quán 
        danh-sắc). Đó là pháp quán Xúc giới và các tâm sở có liên 
        quan. Ở đây, chúng ta chỉ quán niệm vào hơi thở, hơi 
        thở có chạm xúc, mà không quán vào sự chạm xúc. Quán 
        niệm hơi thở nầy cần có một chánh niệm vững mạnh và 
        tuệ giác tri. 
        Bây giờ ta đem tâm vào hơi thở, 
        hơi thở vào và hơi thở ra. Nếu thiền sinh không thể chú 
        tâm vào hơi thở sau một vài buổi thiền, thì có thể tập 
        đếm hơi thở. Việc nầy để giúp họ phát triển 
        định lực. Thiền sinh đếm số sau mỗi hơi thở, như sau: 
        "thở vào ... thở ra ... một", "thở vào ... 
        thở ra ... hai", "thở vào ... thở ra ... ba", ... 
        cho đến "thở vào ... thở ra ... tám". Có thể đếm 
        từ năm đến mười, rồi trở lại số một. Tuy nhiên, 
        thiền sinh nên đếm đến số tám rồi trở lại từ đầu. 
        Số tám là để nhắc nhở chúng ta về Con Đường Tám Chánh 
        (Bát Chánh Đạo) mà chúng ta đang cố gắng hành trì để giác 
        ngộ. Các bạn cần phải cương quyết không để phóng tâm, 
        tâm lang thang chỗ nầy chỗ kia, trong khi đếm hơi thở. 
        Chỉ chú tâm theo dõi hơi thở và đếm số, từ 1 đến 8 
        rồi trở lại 1 ... Qua việc chỉ chú tâm vào đếm hơi 
        thở như thế, tâm sẽ trở nên an định hơn. Thông thường 
        thì cần phải thực hành như thế trong một giờ để tâm 
        được an định và vững chắc. 
        Sau đó, khi tâm an định, bạn có 
        thể bỏ lối đếm hơi thở và chuyển sang giai đoạn kế. 
        Nếu bạn thở vào một hơi dài, bạn biết đó 
        là một hơi dài. Nếu bạn thở ra một hơi dài, bạn biết 
        đó là một hơi dài. Tương tự, nếu bạn thở vào một hơi 
        ngắn, bạn biết đó là một hơi ngắn. Nếu bạn 
        thở ra một hơi ngắn, bạn biết đó là một hơi ngắn. Ở 
        đây, dài hay ngắn là gì ? Đó là khoảng thời gian. Nếu 
        cần một thời gian dài để thở thì đó là hơi thở dài. 
        Nếu cần một thời gian ngắn để thở thì đó là hơi 
        thở ngắn. Tuy nhiên, phải thở bình thường mà không cố 
        gắng ép hơi thở. Không nên đặt tên nó là "dài" 
        hay "ngắn". Nếu cần phải đặt tên thầm trong tâm, 
        thì đặt tên nó là "thở vào, thở ra" mà thôi. 
        Chỉ cần biết nó là hơi dài hay ngắn, nhưng lúc nào cũng 
        phải chú tâm vào luồng hơi đang chạm xúc vào lỗ mũi hay 
        môi trên. Không nên đem tâm đi theo luồng hơi vào trong thân 
        thể hay chạy ra ngoài thân thể. Nếu thiền sinh để tâm 
        theo dõi luồng vào trong thân hay ra ngoài thân thì sẽ không 
        thể làm hoàn hão sự định tâm. Cần phải chú tâm ghi 
        nhận hơi thở đang chạm xúc lỗ mũi hay môi trên trong 
        một, hai, hoặc ba giờ. 
        Đến đây, định tướng 
        (nimitta, ni-mít-tá) sẽ phát sinh. Nếu định tướng không phát 
        sinh thì bạn có thể chuyển sang hành trì như sau: thiền 
        sinh để tâm ghi nhận toàn luồng hơi liên tục từ đầu 
        đến cuối. Bạn không nên đặt tên là: "chặng 
        đầu, chặng giữa, chặng cuối". Nếu cần phải đặt 
        tên thầm trong tâm, thì đặt tên nó là "thở vào, thở 
        ra" mà thôi. Trong lúc đó, nhận biết toàn luồng hơi 
        từ đầu đến cuối, đang chạm xúc tại một nơi cố định 
        (lỗ mũi hay môi trên), và tuyệt đối không theo dõi nó vào 
        bên trong thân thể hay ra bên ngoài. Nếu thiền sinh hành trì 
        như thế trong một hay hai giờ thì định tướng có thể 
        sẽ phát sinh. 
        Bây giờ, cho dù định tướng có 
        hiện ra hay không, thiền sinh tiếp tục sang giai đoạn kế. 
        Trong giai đoạn nầy, bạn tạo một ước nguyện trong tâm: 
        "Nguyện cho hơi thở của tôi được nhu nhuyễn". 
        Từ từ, hơi thở sẽ tự nó trở nên dịu dàng, nhẹ nhàng, 
        nhu nhuyễn. Bạn không nên cố tình ép hơi thở để nó 
        nhẹ nhàng. Bởi vì nếu làm như thế thì chẳng bao lâu, 
        bạn sẽ bị hụt hơi và tạo mệt nhọc. Khi hơi thở tự nó 
        trở nên nhẹ nhàng và tâm an định theo nó, qua thiền lực, 
        hầu hết các thiền sinh sẽ cảm thấy lâng lâng, như thể 
        là họ không có đầu, không có mũi, không có thân nữa, mà 
        cảm thấy chỉ có hơi thở vào ra nhẹ nhàng và một cái tâm 
        đang theo dõi nó. Lúc nầy, bạn cảm thấy là không có 
        "tôi", mà cũng không có "nó". Bây giờ, 
        chỉ còn có một tâm đang gắn chặt vào hơi thở. Nếu tâm 
        được an định và chăm chú vào đó trong một giờ, thì 
        trong thời gian nầy, tâm không còn liên hệ đến các 
        chuyện thế tục nữa. Tâm đang ở trong trạng thái thiện 
        (kusala), và trạng thái thiện nầy rất gần đến trạng thái 
        cận định (upacara samadhi). 
        Đến đây, tùy theo giới hạnh 
        của từng cá nhân, định tướng sẽ hiện ra. 
        Mỗi cá nhân khác nhau sẽ có những định tướng khác nhau. 
        Dù đang nhắm mắt, theo dõi hơi thở, dần dần thiền sinh 
        sẽ thấy định tướng hiện ra, có khi như là một làn 
        chỉ trắng, một luồng ánh sáng trắng, một ngôi sao, một 
        cụm mây hoặc một nhúm bông gòn. Nó có thể rất to, trùm 
        cả khuôn mặt, hoặc như mặt trăng, mặt trời, hoặc một 
        viên ngọc thạch, một viên ngọc trai. Nó hiện ra trong các 
        hình sắc khác nhau là vì nó do tưởng uẩn 
        (saññā) tạo ra. 
        Lúc ban đầu, định tướng có 
        thể giống như có màu khói xám. Dần dần, nếu giữ tâm 
        được an định vào hơi thở, hơi thở và màu khói xám 
        trở thành đồng nhất với nhau, không khác biệt. Sau đó, 
        nếu tâm được an nhẹ và chỉ chú mục vào hơi thở, màu 
        sắc đó trở thành trắng đục. Mặc dù là màu trắng, nhưng 
        nếu bạn chỉ chú mục vào hơi thở, hơi thở sẽ trở thành 
        định tướng và định tướng chính là hơi thở. Nếu hơi 
        thở và định tướng là một, không khác biệt, khi bạn chú 
        mục vào hơi thở thì bạn cũng chú mục vào định tướng, 
        và khi bạn chú mục vào định tướng thì bạn cũng chú 
        mục vào hơi thở. Và như thế, bạn hành thiền tốt và 
        nghiêm túc. 
        Nếu định tướng trở nên vững 
        bền và nếu bạn chỉ chú tâm vào định tướng của hơi 
        thở (anapana nimitta), mà không chú tâm vào hơi thở nữa, 
        tâm bạn trở nên tập trung vào định tướng lúc đó. Trong 
        giai đoạn nầy, điều quan trọng là thiền sinh không nên tìm 
        cách chuyển hóa định tướng. Bạn không nên tìm cách đẩy 
        nó đi xa, hoặc làm cho nó thay đổi hình dạng. Nếu làm như 
        thế, định lực của bạn sẽ không phát triển, và định 
        tướng có thể sẽ biến mất. 
        Tuy nhiên, nếu định tướng 
        hiện ra quá xa đối với lỗ mũi thì thiền sinh chưa có đủ 
        lực để chuyển sang mức thiền định hơi thở (anapana 
        jhana samadhi). Tại sao? Bởi vì đây là một nguyên tắc quan 
        trọng trong việc quán niệm hơi thở. Bản luận giải có đề 
        cập rằng việc luyện tâm thiền định niệm hơi thở 
        (anapanasati samadhi bhavana) chỉ hoàn tất khi nào tâm quán 
        niệm được giữ tại nơi mà hơi thở chạm xúc với cơ 
        thể. Khi thiền sinh chú định vào bên ngoài, xa lìa nơi 
        chạm xúc, thì rất khó mà đạt vào tầng thiền định. Do 
        đó, khi định tướng còn ở xa, thì thiền sinh không nên chú 
        tâm vào nó, mà phải chú tâm vào hơi thở tại một nơi 
        cố định. Từ từ, định tướng sẽ đến gần và hòa 
        nhập vào hơi thở. 
        Khi định tướng có màu khói xám 
        thì đó là sơ tướng (parikamma nimitta) trong trạng thái 
        sơ định (parikamma samadhi). Nếu nó trở thành màu trắng như 
        một nhúm bông gòn, đó là học tướng (uggaha nimitta). 
        Đây là một trạng thái định khá cao. Nếu màu trắng nầy 
        được vững bền, thiền sinh phải an định tâm và chú 
        mục vào đó. Trong giai đoạn nầy, bạn không nên chú ý đến 
        màu sắc của nó, mà chỉ chú tâm vào đó như là một 
        loại định tướng mà thôi. 
        Thí dụ như một ly nước và có 
        một hạt ngọc trai trong đó. Ta chỉ nhìn hạt trai, như 
        thể đem tâm vào định tướng. Không nên điều tra, trạch 
        vấn về Khổ, Vô thường, Vô ngã. Không cần biết nó nóng 
        hay lạnh, cứng hay mềm, mà cũng không cần phân tích màu 
        sắc của nó. Chỉ cần giữ tâm an định và chú mục vào 
        định tướng. Làm như thế, dần dần định tướng sẽ 
        chuyển từ màu trắng đục sang một màu chói sáng. Đây là 
        tợ tướng (patibhaga nimitta). Nếu tâm vẫn giữ an định 
        và chỉ chú mục vào định tướng khoảng 1 đến 2 giờ, 
        hầu hết các thiền sinh đều có thể nhận rõ 5 thiền 
        chi (jhananga) rất dễ dàng nếu họ phân tích chúng lúc 
        đó. Năm thiền chi đó là:
         
          - Tầm (vitakka): đem tâm hướng 
            về định tướng,
 
          - Tứ (vicara): bám sát vào định 
            tướng,
 
          - Hỷ (pity): ưa thích định tướng,
 
          - Lạc (sukha): cảm giác an lạc, 
            sung sướng khi tiếp xúc với định tướng,
 
          - Nhất tâm (ekaggata): tập trung tâm 
            về một điểm (đó là định tướng)
 
         
        Cũng cần biết thêm ở đây là có 
        khi thiền sinh không thể nhận rõ được năm thiền chi trên, 
        là vì lúc đó, thiền sinh vẫn còn bị các triền cái 
        (nivarana) ngăn che. Đó là:
         
          - Tham dục (kamachanda)
 
          - Sân hận (vyapada)
 
          - Hôn trầm (thiramiddha)
 
          - Trạo cữ (udhaccakukucca)
 
          - Nghi ngờ (vicikiccha)
 
         
        Thiền sinh phải duyệt xét từng 
        triền cái một, để xem chúng còn vương vấn trong tâm trong 
        lúc hành thiền hay không. Chúng cần phải được loại bỏ 
        thì việc đắc thiền mới thành tựu. 
        Khi năm thiền chi đều cùng hiện 
        diện đầy đủ, thiền sinh sẽ thấy ngay là mình đang vào tầng 
        thiền thứ nhất (đệ nhất thiền), với tợ tướng là 
        đề mục trong tâm, có tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm. 
        Tiếp tục hành trì trong Nhất Thiền như thế khoảng 1 đến 
        2 giờ, rồi xuất thiền và duyệt lại năm thiền chi cho tường 
        tận. 
        Trong các buổi thiền kế tiếp, 
        thiền sinh tiếp tục ôn tập, và hành trì thuần thục trong 
        tầng thiền thứ nhất. Có năm loại thuần thục:
         
          - Thuần thục phân biệt: 
            phải thuần thục trong việc phân biệt các thiền chi sau 
            khi xuất thiền
 
          - Thuần thục nhập định: 
            phải thuần thục nhập thiền bất cứ lúc nào mà mình 
            muốn
 
          - Thuần thục quyết tâm: 
            phải thuần thục giữ mức thiền trong suốt thời gian mà 
            mình đã định trước
 
          - Thuần thục xuất định: 
            phải thuần thục xuất ra khỏi tầng thiền mỗi khi mình 
            muốn
 
          - Thuần thục xét duyệt: 
            phải thuần thục xét duyệt các thiền chi. Tương tự như 
            mục số 1.
 
         
        Thiền sinh nên nhận thức rằng 
        tầng thiền thứ nhất rất gần với năm triền cái - tham 
        dục, sân hận, hôn trầm, trạo cữ, và nghi ngờ. Thiền 
        sinh cũng nên nhận thức rằng các thiền chi Tầm và Tứ 
        trong tầng thiền thứ nhất làm cho tầng thiền nầy không 
        an định bằng tầng thiền thứ nhì. Vì thế, từ ước 
        muốn rời bỏ hai thiền chi nầy và chỉ còn giữ thiền chi 
        Hỷ, Lạc, Nhất Tâm, thiền sinh tiếp tục đem tâm vào tợ 
        tướng. Làm như thế, thiền sinh sẽ có thể đạt vào tầng 
        thiền thứ nhì, vốn chỉ còn ba thiền chi: Hỷ, Lạc, và 
        Nhất Tâm. Sau khi vào được Nhị Thiền, thiền sinh hành trì 
        năm loại thuần thục tương tự như trên. 
        Sau đó, thiền sinh nhận thức 
        rằng Hỷ cũng không đem lại an định, nên có ước muốn 
        bỏ Hỷ, chỉ còn giữ lại Lạc và Nhất Tâm, thiền sinh 
        tiếp tục đem tâm vào tợ tướng. Làm như thế, thiền sinh 
        sẽ có thể đạt vào tầng thiền thứ ba, vốn chỉ còn 
        hai thiền chi: Lạc, và Nhất Tâm. Sau khi vào được Tam 
        Thiền, thiền sinh hành trì năm loại thuần thục tương tự 
        như trên. 
        Sau đó, thiện sinh nhận thức 
        rằng nếu cứ duy trì Lạc thì lại là một hình thức tham 
        thủ vào cảm giác vui sướng. Cho nên, với ý định bỏ 
        Lạc, thiền sinh tiếp tục đem tâm vào tợ tướng. Làm như 
        thế, thiền sinh sẽ có thể đạt vào tầng thiền thứ tư. 
        Lúc đó, hai thiền chi mới sẽ sinh ra: Xả và Niệm, thay 
        thế Nhất Tâm. Lúc bấy giờ, thiền sinh ở trong trạng thái 
        "xả niệm thanh tịnh", không còn câu chấp vào 
        các cảm giác, và hơi thở trở nên nhẹ nhàng, hầu như tan 
        biến. Tợ tướng trở nên rõ ràng, tròn sáng, quen thuộc, 
        gần gũi, không xa lạ, và thiền sinh chú mục vào đó một 
        cách nhẹ nhàng, bình thản. Sau khi vào được Tứ Thiền, 
        thiền sinh hành trì năm loại thuần thục tương tự như trên. 
         Thiền sinh nên tìm đọc bộ Thanh 
        Tịnh Ðạo (Visuddhi Magga) của Ngài Buddhaghosa, nhất là phần Niệm 
        Hơi Thở trong chương VIII. Sau cùng, thiền sinh cũng cần nên 
        biết rằng công phu hành thiền để đắc bốn tầng thiền 
        như trên chỉ là một giai đoạn sơ khởi, tạo định 
        lực bền vững, dùng đó để làm cơ sở phát triễn tuệ 
        minh sát và tiến đến giải thoát. Trong tiến trình tu học, 
        thiền sinh không nên dừng ở đó, mà cần phải tiếp tục 
        nỗ lực hành trì các giai đoạn kế tiếp, như quán từ bi, 
        quán niệm ân đức Phật, quán tứ đại, quán các sắc pháp, 
        quán thân thể (32 bộ phận), quán các danh pháp, quán lý duyên 
        sinh và các giai đoạn thanh lọc tâm. 
        Bình 
        Anson trích dịch, 
        Perth, Tây Úc, tháng 12-1997  |