|      
            | 
      
        Tứ 
        Diệu Đế 
        Cattari Ariya Saccani
        Bình 
        Anson trích dịch
         
        
          Bài nầy 
          dựa theo bản dịch Anh ngữ của Tỳ Kheo Thanissaro, đăng 
          trong trang nhà Access-to-Insight, http://world.std.com/~metta/, 
          và các bản dịch Việt ngữ của Hòa Thượng Thích Minh Châu 
          (Đại Tạng Kinh Việt Nam). 
         
        -oOo- 
        Sau 
        đó, Đức Thế Tôn bảo các vị tỳ kheo: "Nầy các tỳ 
        kheo, bởi vì không thông hiểu, không thấu đạt Bốn Sự 
        Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế) mà ta cũng như quý vị từ lâu 
        đã phải trải qua nhiều kiếp luân hồi trong vòng sinh tử. 
        Bốn sự thật ấy là gì? 
        Vì không thông hiểu Sự 
        Thật về Khổ (Khổ Đế) mà chúng ta luân hồi, không thông 
        hiểu Sự Thật về Nguồn Gốc của Khổ (Tập Đế), không 
        thông hiểu về Sự Thật về Đoạn Diệt Khổ (Diệt Đế), 
        không thông hiểu Sự Thật về Con Đường Diệt Khổ (Đạo 
        Đế), mà chúng ta đã phải luân hồi trong vòng sinh tử. 
        Bằng cách thông hiểu, bằng cách thấu đạt Sự Thật về 
        Khổ, Sự Thật về Nguồn Gốc của Khổ, Sự Thật về Đoạn 
        Diệt Khổ, Sự Thật về Con Đường Diệt Khổ, lòng tham 
        thủ về sinh hữu được đoạn tận, sự hỗ trợ để sinh 
        hữu được phá hủy, và từ đó không còn phải tái sinh 
        nữa." 
        -- 
        Kinh Đại Niết Bàn (Trường Bộ, 16) 
        Đức 
        Phật giảng về sự Giác Ngộ của Ngài: 
        "Tri kiến phát sinh, 
        minh sát phát sinh, tuệ giác phát sinh, hiểu biết phát sinh, 
        minh kiến phát sinh trong ta, về những điều mà từ trước 
        ta chưa từng nghe đến: 
        -- Đây là Sự Thật 
        Tuyệt Đối về Khổ ... Khổ nầy phải được thông hiểu 
        ... Khổ nầy vừa được thông hiểu. 
        -- Đây là Sự Thật 
        Tuyệt Đối về Nguồn Gốc của Khổ ... Nguồn Gốc nầy 
        phải được đoạn tận ... Nguồn Gốc nầy vừa được đoạn 
        tận. 
        -- Đây là Sự Thật 
        Tuyệt Đối về Sự Diệt Khổ ... Diệt Khổ nầy phải được 
        trực nghiệm ... Diệt Khổ nầy vừa được trực nghiệm. 
        -- Đây là Sự Thật 
        Tuyệt Đối về Con Đường Diệt Khổ ... Con Đường nầy 
        phải được thực chứng ... Con Đường nầy vừa được 
        thực chứng. 
        Nầy các vị tỳ kheo, khi 
        nào mà sự hiểu biết và nhận thức nầy của ta -- với ba 
        vòng chuyển và mười hai kết hợp về bốn Sự Thật 
        Tuyệt Đối đó -- không tinh thuần, ta không thể khẳng định 
        rằng ta là Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác, vượt hơn tất cả 
        mọi loài trong vũ trụ, chư thiên, ma quỷ, phàm phu, tu sĩ, 
        vua chúa và thường dân. Tuy nhiên, ngay khi sự hiểu biết và 
        nhận thức nầy của ta -- với ba vòng chuyển và mười hai 
        kết hợp về bốn Sự Thật Tuyệt Đối đó -- hoàn toàn 
        thật sự tinh thuần, ta đã khẳng định rằng ta là Bậc Chánh 
        Đẳng Chánh Giác, vượt hơn tất cả mọi loài trong vũ 
        trụ, chư thiên, ma quỷ, phàm phu, tu sĩ, vua chúa và thường 
        dân. Tuệ giác và tri kiến phát khởi trong ta: 'Sự Giải Thoát 
        đã xảy ra. Đây là kiếp sống cuối cùng. Không còn phải 
        tái sinh nữa.' " 
        -- 
        Kinh Chuyển Pháp Luân (Tương Ưng, LVI-11) 
          
        1. Diệu Đế 
        về Khổ - Dukkha Ariya Sacca
        Định nghĩa: 
        "Nầy các vị tỳ 
        kheo, đây là Diệu Đế về Khổ: Sinh là khổ, già là khổ, 
        chết là khổ; ưu sầu, than khóc, đau đớn, buồn rầu, và 
        tuyệt vọng là khổ; liên kết với những điều không ưa 
        thích là khổ, cách ly những điều ưa thích là khổ; không 
        đạt được những gì mong muốn là khổ; tóm lại, cả năm 
        uẩn (*) để tham thủ là khổ" 
        -- 
        Kinh Chuyển Pháp Luân (Tương Ưng, LVI-11) 
        
          (*) Năm uẩn: sắc, thọ, 
          tưởng, hành, thức. 
         
        Sáu căn: 
        "Và thế nào là Diệu 
        Đế về Khổ? Câu trả lời phải là sáu căn đều khổ. Sáu 
        căn đó là gì? Là căn của mắt (nhãn căn), căn của tai (nhĩ 
        căn), căn của mũi (tỷ căn), căn của lưỡi (thiệt căn), căn 
        của thân (thân căn), và căn của ý (ý căn). Đây là Sự 
        Thật Cao Quý về Khổ." 
        -- Tương 
        Ưng, LVI-14 
        Khổ như 
        lửa cháy: 
        "Tất cả đều là 
        lửa cháy. Cái gì là lửa cháy? 
        -- Mắt là lửa cháy. Hình 
        sắc là lửa cháy. Nhận thức từ mắt là lửa cháy. Tiếp 
        cận qua mắt là lửa cháy. Những gì sinh khởi tùy thuộc vào 
        sự tiếp cận qua mắt, cảm giác như là khoái lạc, đau đớn, 
        hoặc không lạc không đau, đều đang thiêu cháy. Thiêu cháy 
        với gì? Thiêu cháy với ngọn lửa tham, lửa sân, và lửa 
        si. Ta nói với quý vị rằng tất cả đều đang thiêu cháy 
        với sinh, già, chết, ưu sầu, than khóc, đau đớn, buồn 
        rầu, và tuyệt vọng. 
        -- Tai là lửa cháy. Âm 
        thanh là lửa cháy. Nhận thức từ tai là lửa cháy. Tiếp 
        cận qua tai là lửa cháy. Những gì sinh khởi tùy thuộc vào 
        sự tiếp cận qua tai, cảm giác như là khoái lạc, đau đớn, 
        hoặc không lạc không đau, đều đang thiêu cháy. Thiêu cháy 
        với gì? Thiêu cháy với ngọn lửa tham, lửa sân, và lửa 
        si. Ta nói với quý vị rằng tất cả đều đang thiêu cháy 
        với sinh, già, chết, ưu sầu, than khóc, đau đớn, buồn 
        rầu, và tuyệt vọng. 
        -- Mũi là lửa cháy. Mùi hương 
        là lửa cháy. Nhận thức từ mũi là lửa cháy. Tiếp cận 
        qua mũi là lửa cháy. Những gì sinh khởi tùy thuộc vào sự 
        tiếp cận qua mũi, cảm giác như là khoái lạc, đau đớn, 
        hoặc không lạc không đau, đều đang thiêu cháy. Thiêu cháy 
        với gì? Thiêu cháy với ngọn lửa tham, lửa sân, và lửa 
        si. Ta nói với quý vị rằng tất cả đều đang thiêu cháy 
        với sinh, già, chết, ưu sầu, than khóc, đau đớn, buồn 
        rầu, và tuyệt vọng. 
        -- Lưỡi là lửa cháy. 
        Vị nếm là lửa cháy. Nhận thức từ lưỡi là lửa cháy. 
        Tiếp cận qua lưỡi là lửa cháy. Những gì sinh khởi tùy 
        thuộc vào sự tiếp cận qua lưỡi, cảm giác như là khoái 
        lạc, đau đớn, hoặc không lạc không đau, đều đang thiêu 
        cháy. Thiêu cháy với gì? Thiêu cháy với ngọn lửa tham, 
        lửa sân, và lửa si. Ta nói với quý vị rằng tất cả đều 
        đang thiêu cháy với sinh, già, chết, ưu sầu, than khóc, đau 
        đớn, buồn rầu, và tuyệt vọng. 
        -- Thân là lửa cháy. Vật 
        xúc chạm là lửa cháy. Nhận thức từ thân là lửa cháy. 
        Tiếp cận qua thân là lửa cháy. Những gì sinh khởi tùy 
        thuộc vào sự tiếp cận qua thân, cảm giác như là khoái 
        lạc, đau đớn, hoặc không lạc không đau, đều đang thiêu 
        cháy. Thiêu cháy với gì? Thiêu cháy với ngọn lửa tham, 
        lửa sân, và lửa si. Ta nói với quý vị rằng tất cả đều 
        đang thiêu cháy với sinh, già, chết, ưu sầu, than khóc, đau 
        đớn, buồn rầu, và tuyệt vọng. 
        -- Ý là lửa cháy. Tư tưởng 
        là lửa cháy. Nhận thức từ ý là lửa cháy. Tiếp cận qua 
        ý là lửa cháy. Những gì sinh khởi tùy thuộc vào sự 
        tiếp cận qua ý, cảm giác như là khoái lạc, đau đớn, 
        hoặc không lạc không đau, đều đang thiêu cháy. Thiêu cháy 
        với gì? Thiêu cháy với ngọn lửa tham, lửa sân, và lửa 
        si. Ta nói với quý vị rằng tất cả đều đang thiêu cháy 
        với sinh, già, chết, ưu sầu, than khóc, đau đớn, buồn 
        rầu, và tuyệt vọng." 
        -- Tương 
        Ưng, XXXV-28 
          
        2. Diệu Đế 
        về Nguồn Gốc của Khổ - Dukkha Samudaya Ariya Sacca
        "Nầy các vị tỳ 
        kheo, đây là Diệu Đế về Nguồn Gốc của Khổ: lòng tham 
        thủ làm cho sinh hữu -- kèm theo với ham muốn và ưa thích, 
        thêm vào chỗ nầy chỗ kia , nghĩa là tham thủ các dục 
        lạc, tham thủ thường sinh, tham thủ đoạn sinh." 
        -- 
        Kinh Chuyển Pháp Luân (Tương Ưng, LVI-11) 
        Ai sống trong đời này, 
        Bị ái dục buộc ràng 
        Sầu khổ sẽ tăng trưởng, 
        Như cỏ Bi gặp mưa. 
        Ai sống trong đời này 
        Ái dục được hàng phục 
        Sầu rơi khỏi người ấy 
        Như giọt nước lá sen. (Pháp Cú, 335-336) 
        Như cây bị chặt đốn, 
        Gốc chưa hại vẫn bền 
        Ái tùy miên chưa nhổ, 
        Khổ này vẫn sanh hoài. (Pháp Cú, 338) 
          
        3. Diệu Đế 
        về Sự Diệt Khổ - Dukkha Nirodha Ariya Sacca
        "Nầy các vị tỳ 
        kheo, đây là Diệu Đế về Diệt Khổ: sự tàn lụn và ngưng 
        không còn tàn dư, sự xuất ly, sự từ bỏ, sự giải phóng, 
        và sự buông bỏ lòng tham thủ" 
        -- Tương 
        Ưng, XLVI-11 
        Tháo gỡ các 
        nguyên nhân về khổ: 
        "Ta bảo với các vị 
        tỳ kheo, việc chấm dứt các lậu hoặc không thể nào có 
        được nơi những người không thấy và không biết. Thấy gì 
        và biết gì? 'Đây là sắc, đây là nhân của nó, đây là 
        sự tan biến của nó. Đây là cảm thọ, đây là nhân của 
        nó, đây là sự tan biến của nó. Đây là tưởng, đây là 
        nhân của nó, đây là sự tan biến của nó. Đây là hành, 
        đây là nhân của nó, đây là sự tan biến của nó. Đây là 
        thức, đây là nhân của nó, đây là sự tan biến của nó.' 
        Việc chấm dứt các lậu hoặc chỉ có thể xảy ra nơi 
        những người thấy và biết như thế. 
        Tuệ giác về sự đoạn 
        diệt khi đoạn diệt hiện hữu là do duyên sinh. Nó không 
        thể xảy ra nếu không do duyên sinh. Duyên sinh của nó là gì? 
        Đó là sự giải phóng. 
        
          -- Giải phóng là do duyên 
          sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do duyên sinh. Duyên 
          sinh của nó là gì? Đó là sự lạnh nhạt. 
          -- Sự lạnh nhạt là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra 
          nếu không do duyên sinh. Duyên sinh của nó là gì? Đó là 
          sự chán chường. 
          -- Chán chường là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu 
          không do duyên sinh. Duyên sinh của nó là gì? Đó là tri 
          kiến về bản chất của sự vật. 
          -- Tri kiến về bản chất của sự vật là do duyên sinh. Nó 
          không thể xảy ra nếu không do duyên sinh. Duyên sinh của nó 
          là gì? Đó là tâm định tĩnh. 
          -- Tâm định tĩnh là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra 
          nếu không do duyên sinh. Duyên sinh của nó là gì? Đó là 
          thư thái. 
          -- Thư thái là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không 
          do duyên sinh. Duyên sinh của nó là gì? Đó là khinh an. 
          -- Khinh an là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không 
          do duyên sinh. Duyên sinh của nó là gì? Đó là hỷ. 
          -- Hỷ là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do 
          duyên sinh. Duyên sinh của nó là gì? Đó là lạc. 
          -- Lạc là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do 
          duyên sinh. Duyên sinh của nó là gì? Đó là tín tâm. 
          -- Khổ là do duyên sinh. 
          Nó không thể xảy ra nếu không do duyên sinh. Duyên sinh 
          của nó là gì? Đó là tái sinh. 
          -- Tái sinh là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không 
          do duyên sinh. Duyên sinh của nó là gì? Đó là hữu. 
          -- Hữu là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do 
          duyên sinh. Duyên sinh của nó là gì? Đó là thủ. 
          -- Thủ là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do 
          duyên sinh. Duyên sinh của nó là gì? Đó là tham muốn. 
          -- Tham muốn là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không 
          do duyên sinh. Duyên sinh của nó là gì? Đó là thọ. 
          -- Thọ là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do 
          duyên sinh. Duyên sinh của nó là gì? Đó là tiếp xúc. 
          -- Tiếp xúc là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không 
          do duyên sinh. Duyên sinh của nó là gì? Đó là sáu xứ 
          (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý). 
          -- Sáu xứ là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không 
          do duyên sinh. Duyên sinh của nó là gì? Đó là danh sắc. 
          -- Danh sắc là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không 
          do duyên sinh. Duyên sinh của nó là gì? Đó là thức. 
          -- Thức là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không 
          do duyên sinh. Duyên sinh của nó là gì? Đó là nghiệp hành. 
          -- Nghiệp hành là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu 
          không do duyên sinh. Duyên sinh của nó là gì? Đó là vô 
          minh. 
         
        Cũng như khi chư thiên làm 
        mưa sấm, trút nước vào vùng núi cao, nước nầy chảy 
        xuống theo triền dốc, làm đầy các khe núi, hang động. Khi 
        các khe và hang động đầy tràn, nước sẽ chảy xuống các 
        hồ nhỏ. Khi các hồ nhỏ đầy tràn, nước sẽ chảy 
        xuống các hồ lớn. Khi các hồ lớn đầy tràn, nước sẽ 
        chảy xuống các dòng suối. Khi các dòng suối đầy tràn, nước 
        sẽ chảy xuống các sông lớn. Khi các sông lớn đầy tràn, 
        nước sẽ chảy ra đại dương. Cùng thế ấy: 
        
          Hành có vô minh là duyên, 
          Thức có hành là duyên 
          Danh sắc có thức là duyên 
          Sáu xứ có danh sắc là duyên, 
          Tiếp xúc có sáu xứ là duyên, 
          Thọ có tiếp xúc là duyên, 
          Tham muốn có thọ là duyên, 
          Chấp thủ có tham muốn là duyên, 
          Hữu có chấp thủ là duyên, 
          Sinh có hữu là duyên, 
          Hoạn khổ có sinh là duyên, 
          Tín tâm có hoạn khổ là 
          duyên, 
          Lạc có tín tâm là duyên, 
          Hỷ có lạc là duyên, 
          Khinh an có hỷ là duyên, 
          Thư thái có khinh an là duyên, 
          Tâm định tĩnh có thư thái là duyên, 
          Tri kiến về bản chất của sự vật có tâm định tĩnh là 
          duyên, 
          Chán chường có tri kiến về bản chất của sự vật là 
          duyên, 
          Lạnh nhạt có chán chường là duyên, 
          Giải phóng có lạnh nhạt là duyên, 
          Tuệ giải thoát có giải phóng là duyên." 
         
        -- Tương 
        Ưng, XII-23 
        Lý Duyên 
        Sinh: 
        "Phương cách cao quý nào 
        cần phải được nhận thấy đúng đắn và phân biệt rõ ràng 
        bằng trí tuệ? Đây là lúc một người đệ tử cao sang quán 
        xét được rằng: 
        
          Khi cái nầy hiện hữu 
          thì cái kia hiện hữu 
          Từ việc khởi sinh cái nầy thì có khởi sinh cái kia. 
          Khi cái nầy không hiện hữu thì cái kia không hiện hữu, 
          Từ việc đoạn diệt cái nầy thì có đoạn diệt cái 
          kia." 
         
        Nói cách khác: 
        
          "Vô minh là duyên 
          của hành, 
          Hành là duyên của thức, 
          Thức là duyên của danh sắc, 
          Danh sắc là duyên của sáu xứ, 
          Sáu xứ là duyên của tiếp xúc, 
          Tiếp xúc là duyên của thọ, 
          Thọ là duyên của tham, 
          Tham là duyên của chấp thủ, 
          Chấp thủ là duyên của hữu, 
          Hữu là duyên của sinh, 
          Sinh là duyên của già, chết, ưu sầu, than khóc, đau đớn, 
          buồn rầu, và tuyệt vọng 
         
        Đó là nguồn gốc rốt ráo 
        của hoạn khổ. 
        
          Giờ đây, chấm dứt và 
          đoạn diệt vô minh, đưa đến đoạn diệt hành. 
          Đoạn diệt hành đưa đến đoạn diệt thức, 
          Đoạn diệt thức đưa đến đoạn diệt danh sắc, 
          Đoạn diệt danh sắc đưa đến đoạn sáu xứ, 
          Đoạn diệt sáu xứ đưa đến đoạn diệt tiếp xúc, 
          Đoạn diệt tiếp xúc đưa đến đoạn diệt cảm thọ, 
          Đoạn diệt cảm thọ đưa đến đoạn diệt tham muốn, 
          Đoạn diệt tham muốn đưa đến đoạn diệt chấp thủ, 
          Đoạn diệt chấp thủ đưa đến đoạn diệt hữu, 
          Đoạn diệt hữu đưa đến đoạn diệt sinh 
          Đoạn diệt sinh đưa đến đoạn diệt già, chết, ưu 
          sầu, than khóc, đau đớn, buồn rầu, và tuyệt vọng. 
         
        Đó là sự chấm dứt 
        rốt ráo các hoạn khổ. 
        Đây là phương cách cao quý 
        cần phải được nhận thấy đúng đắn và phân biệt rõ ràng 
        bằng trí tuệ" 
        -- Tăng 
        Chi, X-92 
          
        4. Diệu Đế 
        về Con Đường Diệt Khổ - Dukkha Nirodha Gamini Patipada Ariya 
        Sacca
        Bát Chánh 
        Đạo: 
        "Nầy các vị tỳ 
        kheo, đây là Diệu Đế về Con Đường Diệt Khổ, đó chính 
        là Con Đường Tám Chánh (Bát Chánh Đạo): Chánh Kiến, Chánh 
        Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh 
        Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định." 
        -- 
        Kinh Chuyển Pháp Luân (Tương Ưng, LVI-11) 
          
        Bát Chánh Đạo 
        là Pháp Thừa (Dhammayana): 
        "Này Ananda, Con Đường Tám Chánh 
        nầy là đồng nghĩa với cỗ xe tối thượng, là cỗ xe Pháp, 
        là sự chiến thắng vô thượng trong mọi chiến trận 
        nhiếp phục tham, sân, si." 
        -- Tương 
        Ưng, V-4 
        Định 
        nghĩa về tám chi phần: 
        "Này các 
        vị tỳ kheo, thế nào là chánh tri kiến? 
        Đó là sự thông hiểu về khổ, sự thông hiểu về nguyên 
        nhân của khổ, sự thông hiểu về sự diệt khổ, và sự 
        thông hiểu về con đường diệt khổ. 
        Thế nào là chánh 
        tư duy? Đó là tư duy về sự xuất ly, tư duy 
        về vô sân, tư duy về vô hại. 
        Thế nào là chánh 
        ngữ? Đó là từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, 
        từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm. 
        Thế nào chánh 
        nghiệp? Đó là từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy 
        của không cho, từ bỏ hành động tà dâm. 
        Thế nào là chánh 
        mạng? Đó là đoạn trừ tà mạng, nuôi sống 
        với chánh mạng. 
        Thế nào là chánh 
        tinh tấn? Đó là tinh tấn ngăn chận không cho 
        khởi sanh các bất thiện pháp chưa sanh, tinh tấn trừ diệt 
        các bất thiện pháp đã sanh, tinh tấn phát khởi các thiện 
        pháp chưa sanh, và tinh tấn duy trì các thiện pháp đã sanh. 
        Thế nào là chánh 
        niệm? Đó là sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, 
        tỉnh giác, điều phục mọi tham ưu trên đời; sống quán 
        thọ trên thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, điều phục mọi tham 
        ưu trên đời; sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, 
        điều phục mọi tham ưu trên đời; sống quán pháp trên các 
        pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, điều phục mọi tham ưu trên 
        đời. 
        Thế nào là chánh 
        định? Đó là ly dục, ly pháp bất thiện, 
        chứng và trú Thiền-na thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc 
        do ly dục sanh, có tầm, có tứ; rồi làm cho tịnh chỉ tầm 
        và tứ, chứng và trú vào Thiền-na thứ hai, một trạng thái 
        hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh, 
        nhất tâm; rồi ly hỷ trú xả, chánh niệm, tỉnh giác, thân 
        cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc 
        trú, chứng và trú vào Thiền-na thứ ba; rồi xả lạc, xả 
        khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú vào 
        Thiền-na thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh 
        tịnh." 
        -- Tương 
        Ưng, V-8 
          
        Tìm 
        lại Con Đường Cũ Xa Xưa: 
        "Có một người đang 
        đi theo một con đường mòn trong rừng. Đột nhiên người 
        ấy tìm ra được một con đường cũ xa xưa mà các vị 
        tiền nhân thường dùng. Người ấy liền đi theo con đường 
        ấy. Sau đó, người ấy tìm lại được thành phố cổ xưa 
        mà ngày trước đã có nhiều người trú ngụ, với các công 
        viên, vườn cây, hồ ao, đền đài tráng lệ. Người ấy 
        trở về, báo cáo với vua và các quan đại thần: 'Thưa bệ 
        hạ, khi thần dân đi theo con đường mòn trong rừng, thần dân 
        đã tìm lại được một con đường cũ xa xưa. Thần dân 
        liền đi theo con đường ấy. Sau đó, thần dân tìm lại 
        được thành phố cổ xưa mà ngày trước đã có nhiều người 
        trú ngụ, với các công viên, vườn cây, hồ ao, đền đài 
        tráng lệ. Kính xin bệ hạ hãy trùng tu lại thành phố 
        ấy.' Sau đó, nhà vua và các quan đại thần quyết định trùng 
        tu thành phố cổ đó, và về sau, thành phố nầy trở nên 
        phồn thịnh, đông dân cư, phát triển lớn mạnh và giàu có. 
        Cùng thế ấy, ta đã tìm 
        lại con đường cũ xa xưa, một con đường mà các Bậc Chánh 
        Đẳng Chánh Giác đều đi qua trong các thời kỳ trước. Con 
        đường cũ xa xưa đó là gì? Đó là Con Đường Tám 
        Chánh: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh 
        Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định. 
        Ta đã đi theo con đường ấy. 
        Theo con đường đó, ta đã 
        có được tri kiến về già và chết, tri kiến về nguyên nhân 
        của già và chết, tri kiến về đoạn diệt già và chết, 
        tri kiến về con đường đoạn diệt già và chết. 
        Theo con đường đó, ta đã 
        có được tri kiến về sinh, tri kiến về nguyên nhân của 
        sinh, tri kiến về đoạn diệt sinh, tri kiến về con đường 
        đoạn diệt sinh. 
        Theo con đường đó, ta đã 
        có được tri kiến về hữu, tri kiến về nguyên nhân của 
        hữu, tri kiến về đoạn diệt hữu, tri kiến về con đường 
        đoạn diệt hữu. 
        Theo con đường đó, ta đã 
        có được tri kiến về chấp thủ, tri kiến về nguyên nhân 
        của chấp thủ, tri kiến về đoạn diệt chấp thủ, tri 
        kiến về con đường đoạn diệt chấp thủ. 
        Theo con đường đó, ta đã 
        có được tri kiến về tham muốn, tri kiến về nguyên nhân 
        của tham muốn, tri kiến về đoạn diệt tham muốn, tri 
        kiến về con đường đoạn diệt tham muốn. 
        Theo con đường đó, ta đã 
        có được tri kiến về thọ, tri kiến về nguyên nhân của 
        thọ, tri kiến về đoạn diệt thọ, tri kiến về con đường 
        đoạn diệt thọ. 
        Theo con đường đó, ta đã 
        có được tri kiến về tiếp xúc, tri kiến về nguyên nhân 
        của tiếp xúc, tri kiến về đoạn diệt tiếp xúc, tri 
        kiến về con đường đoạn diệt tiếp xúc. 
        Theo con đường đó, ta đã 
        có được tri kiến về sáu xứ, tri kiến về nguyên nhân 
        của sáu xứ, tri kiến về đoạn diệt sáu xứ, tri kiến 
        về con đường đoạn diệt sáu xứ. 
        Theo con đường đó, ta đã 
        có được tri kiến về danh sắc, tri kiến về nguyên nhân 
        của danh sắc, tri kiến về đoạn diệt danh sắc, tri kiến 
        về con đường đoạn diệt danh sắc. 
        Theo con đường đó, ta đã 
        có được tri kiến về thức, tri kiến về nguyên nhân của 
        thức, tri kiến về đoạn diệt thức, tri kiến về con đường 
        đoạn diệt thức. 
        Theo con đường đó, ta đã 
        có được tri kiến về nghiệp hành, tri kiến về nguyên nhân 
        của nghiệp hành, tri kiến về đoạn diệt nghiệp hành, tri 
        kiến về con đường đoạn diệt nghiệp hành. 
        Tri kiến được như thế, 
        ta đã truyền dạy lại cho các nam và nữ tu sĩ, nam và nữ 
        cư sĩ, để đời sống thánh thiện nầy được trở nên hùng 
        mạnh, huy hoàng, quảng bá sâu rộng cho chư thiên và loài người". 
        -- Tương 
        Ưng, XII-65 
          
        Con đường giải 
        thoát: 
        Nầy Subhada, nếu giáo pháp nào mà 
        không hàm chứa Bát Chánh Đạo thì giáo pháp đó không đào 
        tạo các vị sa môn đạt đạo quả thứ nhất (Dự lưu, Tu 
        đà hoàn), không đào tạo các vị sa môn đạt đạo quả 
        thứ hai (Nhất lai, Tư đà hàm), không đào tạo các vị sa môn 
        đạt đạo quả thứ ba (Bất lai, A na hàm), không đào tạo 
        các vị sa môn đạt đạo quả thứ tư (Vô sanh, A la hán). 
        Nầy Subhada, nếu giáo pháp nào có 
        hàm chứa Bát Chánh Đạo thì giáo pháp đó sẽ đào tạo các 
        vị sa môn đạt đạo quả thứ nhất (Dự lưu, Tu đà hoàn), 
        sẽ đào tạo các vị sa môn đạt đạo quả thứ hai (Nhất 
        lai, Tư đà hàm), sẽ đào tạo các vị sa môn đạt đạo 
        quả thứ ba (Bất lai, A na hàm), sẽ đào tạo các vị sa môn 
        đạt đạo quả thứ tư (Vô sanh, A la hán). 
        Nầy Subhada, giáo pháp của Ta có 
        hàm chứa Bát Chánh Đạo nên giáo pháp đó đào tạo các 
        vị sa môn đạt đạo quả thứ nhất (Dự lưu, Tu đà hoàn), 
        đào tạo các vị sa môn đạt đạo quả thứ hai (Nhất lai, 
        Tư đà hàm), đào tạo các vị sa môn đạt đạo quả thứ 
        ba (Bất lai, A na hàm), đào tạo các vị sa môn đạt đạo 
        quả thứ tư (Vô sanh, A la hán). Các hệ giáo pháp khác đều 
        không đào tạo các vị sa môn đạt đạo quả thánh, đắc 
        tuệ giải thoát. Nầy Subhada, khi nào các vị sa môn tu tập 
        và truyền giảng Chánh Pháp một cách đúng đắn thì thế 
        giới nầy sẽ không bao giờ trống vắng các bậc A la hán 
        giải thoát. 
        -- Kinh Đại Bát 
        Niết Bàn, Trường Bộ Kinh, 16:214 
        (Bình 
        Anson trích dịch, 
        Perth, Western Australia, tháng 11-1998) 
           |