| Lược trích kinh   Ghi lại các lời dạy của Đức Phật trong khoảng 
			18 tháng trước khi nhập diệt: 
				- Bắt đầu tại núi Linh Thứu, Vương Xá, sau mùa hạ 43.- Du hành qua Vương Xá, đến Nalanda.
 - Đến thành Pataliputta, vượt sông Hằng, đến thành Vesali.
 - Nhập hạ 44 tại Vesali. Bị bệnh trầm trọng.
 - Sau mùa hạ, Ngài tuyên bố sẽ nhập diệt trong 3 tháng.
 - Lên đường đến Pàvà. Nhận thức ăn cúng dường của Cunda.
 - Bị bệnh, nhưng vẫn tiếp tục đến Kusinara.
 - Nhập diệt tại Kusinara, rằm tháng Vesak, trước mùa hạ 45.
 1) Núi Linh Thứu, Vương Xá: Bảy Pháp Bất Thối cho dân Vajji (Bạt-kỳ) để được cường thịnh, 
			không bị suy giảm: 
				(1) Thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo với nhau. (2) Tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết, 
				và làm việc trong niệm đoàn kết. (3) Không ban hành những luật lệ không được ban hành, không 
				hủy bỏ những luật lệ đã được ban hành, sống đúng với truyền 
				thống như đã ban hành thuở xưa.  (4) Tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc trưởng 
				lão và nghe theo lời dạy của những vị này.  (5) Không có bắt cóc và cưỡng ép những phụ nữ và thiếu nữ 
				phải sống với mình.  (6) Tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các tự miếu ở 
				tỉnh thành và ngoài tỉnh thành, không bỏ phế các cúng lễ đã cúng 
				từ trước, đã làm từ trước đúng với quy pháp.  (7) Bảo hộ, che chở, ủng hộ đúng pháp các vị A-la-hán ở tại 
				Vajjì khiến các vị A-la-hán chưa đến sẽ đến trong xứ, và những 
				vị A-la-hán đã đến được sống an lạc.  Bảy Pháp Bất Thối cho chúng Tỳ-khưu được cường thịnh, không 
			bị suy giảm:  
				(1) Thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo với nhau. (2) Tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết, 
				và làm việc Tăng sự trong niệm đoàn kết.  (3) Không ban hành những luật lệ không được ban hành, không 
				hủy bỏ những luật lệ đã được ban hành, sống đúng với những học 
				giới được ban hành.  (4) Tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc Tỳ-khưu 
				thượng tọa những vị này là những vị giàu kinh nghiệm, niên cao 
				lạp trưởng, bậc cha của chúng Tăng, bậc thầy của chúng Tăng và 
				nghe theo lời dạy của những vị này.  (5) Không bị chi phối bởi tham ái, tham ái này tác thành một 
				đời sống khác.  (6) Thích sống những chỗ nhàn tịnh.  (7) Tự thân an trú chánh niệm, khiến các bạn đồng tu thiện 
				chí chưa đến muốn đến ở, và các bạn đồng tu thiện chí đã đến ở, 
				được sống an lạc.  Bảy Pháp Bất Thối khác cho chúng Tỳ-khưu: 
				
					Không ưa thích làm thế sự, không hoan hỷ làm thế sự, 
					không đam mê làm thế sự. Không ưa thích phiếm luận, không hoan hỷ phiếm luận, 
					không đam mê phiếm luận. Không ưa thích ngủ nghỉ. Không ưa thích quần tụ, không hoan hỷ quần tụ, không đam 
					mê quần tụ. Không có ác dục vọng, không bị chi phối bởi ác dục vọng.
					Không bạn bè ác dục vọng, không thân tín ác dục vọng, 
					không cộng hành với ác dục vọng. Không dừng ở nửa chừng, giữa sự đạt đáo những quả vị 
					thấp kém và những quả vị thù thắng.  Các Bảy Pháp Bất Thối khác cho chúng Tỳ-khưu: 
				(a) có tín tâm, có tàm, có quý, có nghe nhiều, có tinh tấn, 
				có chánh niệm, có trí tuệ. (b) có tu tập niệm giác chi, tu tập trạch pháp giác chi, tu 
				tập tinh tấn giác chi, tu tập khinh an giác chi, tu tập hỷ giác 
				chi, tu tập định giác chi, tu tập xả giác chi. (c) có tu tập vô thường tưởng, tu tập vô ngã tưởng, tu tập 
				bất tịnh tưởng, tu tập nguy hiểm tưởng, tu tập xả ly tưởng, tu 
				tập vô tham tưởng, tu tập diệt tưởng Sáu Pháp Bất Thối cho chúng Tỳ-khưu (Lục hòa): 
				
					Gìn giữ thân nghiệp từ hòa. Gìn giữ khẩu nghiệp từ hòa. Gìn giữ ý nghiệp từ hòa. Phân phối không thiên vị, chung thọ hưởng với các bạn 
					giới đức đồng tu, mọi lợi dưỡng chơn chánh, hợp pháp, cho 
					đến những vật thọ lãnh trong bình bát khất thực. Thọ trì những giới luật đúng với Sa-môn hạnh, những giới 
					luật không bị gẫy vụn, không bị sứt mẻ, không bị tỳ vết, 
					không bị uế trược, những giới luật đưa đến giải thoát, được 
					người có trí tán thán, không bị ô nhiễm bởi mục đích sai 
					lạc, những giới luật hướng đến định tâm. Thọ trì những tri kiến đúng với Sa-môn hạnh, những thánh 
					tri kiến đưa đến giải thoát, hướng đến sự diệt tận khổ đau 
					cho những ai thực hành theo. 2) Nhà nghỉ Amballathikhà, giữa Vương Xá và Nalanda: Tam vô lậu học: - Ðây là Giới, đây là Ðịnh, đây là Tuệ, Ðịnh cùng tu với Giới sẽ 
			đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với Ðịnh sẽ đưa đến quả 
			vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn 
			toàn các món lậu hoặc, tức là dục lậu, hữu lậu (tri kiến lậu), vô 
			minh lậu.  3) Tại Nalanda: Ngài Xá-lợi-phất tán thán Đức Phật: – Đức Phật cũng như các vị 
			Phật trong quá khứ đều đã diệt trừ Năm Triền cái, những nhiễm tâm 
			khiến cho trí tuệ yết ớt, đã an trú tâm vào Bốn Niệm xứ, đã chân 
			chánh tu tập Bảy Giác chi, đã chứng được Vô thượng Chánh đẳng giác.
			 4) Tại Pataliputta (Ba-lăng-phất): Lợi ích của người giữ giới: giảng cho các cư sĩ 
				Sống có giới hạnh, sẽ có tiền của dồi dào rất nhiều vì sống 
				không phóng dật. Sống có giới hạnh, sẽ được tiếng tốt đồn xa. Ðó là sự lợi 
				ích thứ hai cho những ai giữ giới, sống theo giới luật. Sống có giới hạnh, khi đi vào hội chúng nào, hoặc Sát-đế-lỵ, 
				hoặc Bà-la-môn, hoặc gia chủ, hoặc Sa-môn, người ấy đi vào với 
				tâm thần không sợ hãi, không bối rối. Sống có giới hạnh, sẽ chết với tâm hồn không rối loạn. Sống có giới hạnh, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ được 
				sanh vào thiện thú, thiên giới.  5) Bờ sông Hằng 
				Rồi Thế Tôn đi đến sông Hằng. Lúc bấy giờ, sông tràn ngập 
				nước đến bờ đến nỗi con quạ có thể uống được. Có người đang đi 
				tìm thuyền, có người đang đi tìm phao, có người cột bè để qua bờ 
				bên kia. Thế Tôn mau lẹ như người lực sĩ duỗi cánh tay được co 
				lại hay co cánh tay đã duỗi ra, biến mất từ bờ bên này và hiện 
				ra trên bờ bên kia với chúng Tỳ-khưu.  Thế Tôn thấy những người kia, người đang đi tìm thuyền, người 
				đang đi tìm phao, người đang đi cột bè để qua bờ bên kia. Thế 
				Tôn hiểu được ý nghĩa của cảnh này, lúc ấy bèn ứng khẩu lời cảm 
				khái: – "Những người nào đã vượt biển trùng dương, bỏ lại đất sũng 
				đầm ao, trong khi người phàm phu vẫn còn đang cột bè, những 
				người ấy thật là những vị trí tuệ được giải thoát" 6) Tại Kotigama Tầm quan trọng của Tứ diệu đế: 
				– Chính vì không giác ngộ, không thông hiểu Bốn Thánh đế mà 
				chúng ta phải lưu chuyển luân hồi lâu năm. Khi Bốn Thánh đế được 
				giác ngộ, được thông hiểu, thời hữu ái được diệt trừ, sự dắt dẫn 
				đến một đời sống được đoạn tuyệt, nay không còn hậu hữu nữa 7) Tại Nadika 
				Nhiều đệ tử cư sĩ tại đây đã đắc 3 quả Thánh đầu tiên.Bốn Pháp kính (gương Pháp): tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, 
				giới hạnh đầy đủ 8) Đến Vesali Sống tỉnh giác: 
				– Này các Tỳ-khưu, các Ngươi phải sống an trú chánh niệm, 
				tỉnh giác. Này các Tỳ-khưu, thế nào là Tỳ-khưu an trú chánh 
				niệm? Tỳ-khưu đối với thân, quán thân, tinh tấn, tỉnh giác, 
				chánh niệm nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi ở trên đời, đối với các 
				cảm thọ... đối với tâm... đối với các pháp, quán pháp, tinh tấn, 
				tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi ở trên đời. 
				Như vậy gọi là chánh niệm.  Thế nào là Tỳ-khưu tỉnh giác? Tỷ Kheo tỉnh giác khi đi tới, 
				đi lui; tỉnh giác khi ngó tới, ngó lui; tỉnh giác khi co tay, 
				duỗi tay,;tỉnh giác khi mang áo sanghati (tăng-già-lê) mang bát, 
				mang y, tỉnh giác khi ăn, khi uống, khi nhai, khi nếm; tỉnh giác 
				khi đại tiện, tiểu tiện; tỉnh giác khi đi, khi đứng, khi ngồi, 
				khi nằm, khi thức, khi nói, khi im lặng. Như vậy Tỳ-khưu sống 
				tỉnh giác.  
				An cư mùa hạ tại Vesali, Đức Phật bị bệnh trầm trọng.  Không mật truyền: 
				– Này Ananda, Ta đã giảng Chánh pháp, không có phân biệt 
				trong ngoài (mật giáo và không phải mật giáo), vì này Ananda, 
				đối với các Pháp, Như Lai không bao giờ là vị Ðạo sư còn nắm tay 
				(còn giữ lại một ít mật giáo chưa giảng dạy).  Tự mình là ngọn đèn cho chính mình: 
				– Này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự 
				mình nương tựa chính mình, chớ nương tựa một gì khác. Dùng Chánh 
				pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương 
				tựa một gì khác.  Này Ananda, thế nào là vị Tỳ-khưu hãy tự mình là ngọn đèn cho 
				chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì 
				khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ 
				nương tựa, không nương tựa một gì khác?  Này Ananda, ở đời, vị Tỳ-khưu, đối với thân quán thân, tinh 
				tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi trên 
				đời; đối với các cảm thọ... đối với tâm... đối với các pháp, 
				quán pháp, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham 
				ái, ưu bi trên đời. Này Ananda, như vậy vị Tỳ-khưu tự mình là 
				ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không 
				nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh 
				pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác.  Này Ananda, những ai sau khi Ta diệt độ, tự mình là ngọn đèn 
				cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa 
				một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm 
				chỗ nương tựa, không nương tựa vào một pháp gì khác, những vị 
				ấy, này Ananda, là những vị tối thượng trong hàng Tỳ-khưu của 
				Ta.  
				Tại điện thờ Capala, Đức Phật tuyên bố sẽ diệt độ trong 3 
				tháng. Tóm tắt giáo pháp: 
				– Này các Tỳ-khưu, nay những pháp do Ta chứng ngộ và giảng 
				dạy cho các Ngươi, các Ngươi phải khéo học hỏi, thực chứng tu 
				tập và truyền rộng để phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì 
				hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng 
				thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho 
				loài Trời và loài Người.  Này các Tỳ-khưu, thế nào là các pháp do Ta chứng ngộ và giảng 
				dạy, các Ngươi phải khéo học hỏi, thực chứng, tu tập và truyền 
				rộng để cho phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh phúc 
				cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng 
				cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và 
				loài Người? Chính là Bốn Niệm xứ, Bốn Chánh cần, Bốn Thần túc, 
				Năm Căn, Năm Lực, Bảy Bồ-đề phần, Tám Thánh đạo phần.  9) Rời Vesali, đến Bhandagàma, Hatthigam, Ambagama, Jambugama, 
			Bhoganagara.  
				– Nếu có vị Tỳ-khưu nói: "Đây là Pháp, là Luật, là lời dạy 
				của vị Ðạo Sư". các ngươi không nên tán thán, không nên hủy báng 
				lời nói của Tỳ-khưu ấy. Không tán thán, không hủy báng, mỗi mỗi 
				chữ, mỗi mỗi câu của vị ấy, nhưng cần phải được học hỏi kỹ lưỡng 
				và đem so sánh với Kinh, đối chiếu với Luật. Khi đem so sánh với 
				Kinh, đối chiếu với Luật. Nếu các lời đó không phù hợp với Kinh, không tương ứng với 
				Luật, thời các ngươi có thể kết luận: "Chắc chắn những lời này 
				không phải là lời của Thế Tôn, và Tỳ-khưu ấy đã thọ giáo sai 
				lầm". Và này các Tỳ-khưu, các ngươi hãy từ bỏ những lời ấy.  Khi đem so sánh với Kinh, đem đối chiếu với Luật, nếu chúng 
				phù hợp với Kinh, tương ứng với Luật, thời các ngươi có thể kết 
				luận: "Chắc chắn những lời ấy phải là lời dạy của Thế Tôn và 
				Tỳ-khưu ấy đã thọ giáo chơn chánh". Này các Tỳ-khưu, các ngươi 
				hãy thọ trì những lời ấy. 10) Đến Pàvà, thị trấn của bộ tộc Mallà  Đến vườn xoài của Cunda, thọ thực (món Sùkara-maddave), và ngã 
			bệnh. Lên đường đi qua bờ bên kia sông Hirannavati, đến ở Kusinàrà - 
			Upavatama - rừng Sàlà của dòng họ Màllà. 11) Tại Kusinàra Bốn động tâm: 
				– Này Ananda, có bốn Thánh tích kẻ thiện tín cần phải chiêm 
				ngưỡng và tôn kính. Thế nào là bốn? "Ðây là chỗ Như Lai đản sanh". Này Ananda, đó là thánh tích, 
				kẻ thiện tín cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính.  "Ðây là chỗ Như Lai chứng ngộ vô thượng Chánh Ðẳng Giác", này 
				Ananda, đó là Thánh tích, kẻ thiện tín cần phải chiêm ngưỡng và 
				tôn kính.  "Ðây là chỗ Như Lai chuyển Pháp luân vô thượng", này Ananda, 
				đó là Thánh tích, kẻ thiện tín cần phải chiêm ngưỡng và tôn 
				kính.  "Ðây là chỗ Như Lai diệt độ, nhập Vô dư y Niết-bàn", này 
				Ananda, đó là Thánh tích, kẻ thiện tín cần phải chiêm ngưỡng và 
				tôn kính.  Này Ananda, đó là bốn Thánh tích, kẻ thiện tín cư sĩ cần phải 
				chiêm ngưỡng và tôn kính. Này Ananda, các thiện tín Tỳ-khưu, 
				Tỳ-khưu ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ sẽ đến với niềm suy tư: "Ðây là 
				chỗ Như Lai đản sanh", "Ðây là chỗ Như Lai chứng ngộ vô thượng 
				Chánh Ðẳng Chánh Giác", "Ðây là chỗ Như Lai chuyển Pháp luân vô 
				thượng", "Ðây là chỗ Như Lai diệt độ, nhập Vô dư y Niết-bàn".
				 Này Ananda, những ai, trong khi chiêm bái những Thánh tích mà 
				từ trần với tâm thâm tín hoan hỷ, thời những vị ấy, sau khi thân 
				hoại mạng chung sẽ được sanh cõi thiện thú, cảnh giới chư Thiên.
				 Cúng dường Đức Phật: 
				– Này Ananada, các cây sàlà song thọ tự nhiên trổ hoa trái 
				mùa tràn đầy cành lá, những đóa hoa này rơi lên, gieo khắp và 
				tung vãi trên thân Như Lai để cúng dường. Những thiên hoa 
				Mandàrava từ trên hư không rơi xuống, rơi lên, gieo khắp và tung 
				vãi trên thân Như Lai để cúng dường. Bột trời chiên đàn từ trên 
				hư không rơi xuống, rơi lên, gieo khắp và tung vãi trên thân Như 
				Lai để cúng dường. Nhạc trời trên hư không trổi dậy để cúng 
				dường Như Lai. Thiên ca trên hư không vang lên để cúng dường Như 
				Lai.  Nhưng, này Ananda, như vậy không phải kính trọng, tôn sùng, 
				đảnh lễ, cúng dường hay lễ kính Như Lai. Này Ananda, nếu có 
				Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni, cư sĩ nam hay cư sĩ nữ nào thành tựu Chánh 
				pháp và tùy pháp, sống chơn chánh trong Chánh pháp, hành trì 
				đúng Chánh pháp, thời người ấy kính trọng, tôn sùng, đảnh lễ, 
				cúng dường Như Lai với sự cúng dường tối thượng. Do vậy, này 
				Ananda, hãy thành tựu Chánh pháp và tùy pháp, sống chơn chánh 
				trong Chánh pháp và hành trì đúng Chánh pháp. Này Ananda, các 
				ngươi phải học tập như vậy. Bát chánh đạo:  
				– Này Subhadda, trong pháp luật nào không có Bát Thánh đạo, 
				thời ở đây không có đệ nhất Sa-môn, ở đây cũng không có đệ nhị 
				Sa-môn, cũng không có đệ tam Sa-môn, cũng không có đệ tứ Sa-môn. 
				Này Subhadda trong pháp luật nào có Bát Thánh đạo, thời ở đây có 
				đệ nhất Sa-môn, cũng có đệ nhị Sa-môn, cũng có đệ tam Sa-môn, ở 
				đấy cũng có đệ tứ Sa-môn. Này Subhadda, chính trong pháp luật 
				này có Bát Thánh Ðạo, thời này Subhadda, ở đây có đệ nhất 
				Sa-môn, ở đây cũng có đệ nhị Sa-môn, cũng có đệ tam Sa-môn, cũng 
				có đệ tứ Sa-môn. Những hệ thống ngoại đạo khác đều không có 
				những Sa-môn. Này Subhadda, nếu những vị Tỳ-khưu này sống chơn 
				chánh, thời đời này không vắng những vị A-la-hán. Lời cuối cùng của Như Lai:  
				– Này các Tỳ-khưu, nay Ta khuyên dạy các ngươi: "Các pháp hữu 
				vi là vô thường, hãy tinh tấn, chớ có phóng dật".    -ooOoo- |