Bình
Anson
Năm đầu tiên (528 TTL):
Sau khi thành đạo vào đêm rằm tháng
Vesakha (tức tháng Tư âm lịch), Đức Phật đến ngụ tại khu
vườn nai (Lộc uyển), vùng Chư thiên đọa xứ (Isipatana) tức
Sa-nặc (Sarnath) ngày nay, gần thành Ba-na-lại (Benares).
Tại đó, Ngài giảng bài kinh đầu tiên, kinh Chuyển Pháp Luân,
hóa độ năm anh em đạo sĩ Kiều-trần-như (Kodañña), cư sĩ
Da-xá (Yasa), gia đình và các bạn của Da-xá.
Năm thứ 2-4 (527-525 TTL):
Ngụ tại thành Vương-xá (Rajagaha),
kinh đô của xứ Ma-kiệt-đà (Magadha). Ngài cảm hóa vua
Bình-sa (Bimbisara). Vua cúng dường khu rừng Trúc Lâm
(Veluvana), ngoài cửa Bắc của thành Vương-xá, làm nơi trú
ngụ của Ðức Phật và chư Tăng. Ngài thường đến núi Linh Thứu
(Gijjhakuta) để giảng đạo.Trong thời gian nầy, Ngài hóa độ
Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, y sĩ Kỳ-bạt (Jivaka) và trưởng
giả Tu-đạt Cấp Cô Độc (Sudatta Anathapindika). Y sĩ Kỳ-bạt
cúng dường khu vườn xoài làm tinh xá, và trưởng giả Cấp Cô
Độc cúng dường tinh xá Kỳ Viên (Jetavana). Ngài trở về thăm
phụ vương Tịnh Phạn (Suddhodana), và nhận hoàng tử La-hầu-la
(Rahula) vào hàng sa di.
Năm thứ 5 (524 TTL):
Ngụ tại Vệ-xá-li (Vesali), thủ đô của
xứ Licchavi, và tại thành Vương-xá. Tại thành Vệ-xá-li, Đức
Phật cứu độ dân chúng đang bị nạn hạn hán và bệnh dịch tả
hoành hành. Vua Tịnh Phạn qua đời trong năm này. Ðức Phật
thành lập giáo đoàn Tỳ khưu ni theo lời thỉnh cầu của bà di
mẫu Maha Pajapati Gotami (Kiều-đàm-di).
Năm thứ 6 (523 TTL):
Ngụ tại đồi Mankula, thành Câu-diệm-bi
(Kiều-thượng-di, Kosambi), xứ Vamsa, Ngài thu phục và giáo
hóa các người ngoại đạo.
Năm thứ 7 (522 TTL):
Theo Chú giải bộ Pháp Tụ và Chú giải
kinh Pháp Cú (kệ 181), trong mùa hạ năm này, Đức Phật trú
tại cõi trời Ðao-lợi (Tavatimsa). Ngài dạy Thắng Pháp
(Abhidhamma, Vi diệu pháp) cho chư thiên và mẫu hậu Ma-da
(Maha Maya). Mỗi ngày, Ngài trở về cõi người, tại thành
Sankassa, tóm tắt lại cho tôn giả Xá-lợi-phất để tôn giả
khai triển và giảng rộng ra cho hàng đệ tử.
Năm thứ 8 (521 TTL):
Ngụ tại rừng Bhesakala, núi Cá Sấu
(Sumsumaragiri), xứ Vamsa, Ngài giảng pháp cho bộ tộc
Bhagga.
Năm thứ 9 (520 TTL):
Ngụ tại thành Câu-diệm-bi. Nhân khi bị
bà thứ hậu Magandhiya của vua Udena oán ghét và bêu xấu, Ðức
Phật dạy tôn giả A-nan (Ananda) về hạnh kham nhẫn.
Năm thứ 10 (519 TTL):
Ngụ tại rừng Parileyya gần thành
Câu-diệm-bi. Không khuyên giải được các xung đột và tranh
cãi giữa hai nhóm tu sĩ, Ðức Phật bỏ vào rừng sống độc cư
trong suốt 3 tháng hạ, và hóa độ được một voi chúa và một
chú khỉ. Hai con thú nầy đã giúp đỡ Ngài trong các công việc
hằng ngày.
Năm thứ 11 (518 TTL):
Ngụ tại làng Ekanala, phía nam thành
Vương-xá, Ngài hóa độ vị điền chủ Kasibharadvaja.
Năm thứ 12 (517 TTL):
Ngụ tại Veranja, phía nam thành Xá-vệ,
Ðức Phật dạy tôn giả Xá-lợi-phất rằng Ngài sẽ thiết chế giới
luật vì có hoen ố phát sinh trong hàng Tăng chúng. Nếu không
như thế, Giáo Pháp sẽ không tồn tại lâu dài.
Năm thứ 13 (516 TTL):
Ngụ tại núi đá Caliya.
Năm thứ 14 (515 TTL):
Ngụ tại tinh xá Kỳ-viên, thành Xá-vệ
(Savatthi). Xá-vệ là kinh đô của xứ Kosala (Kiều-tất-la),
triều vua Ba-tư-nặc (Pasenadi). Tôn giả La-hầu-la tròn 20 tuổi và thọ Cụ túc
giới, trở thành một vị Tỳ khưu. Đức Phật hóa độ bà Tỳ-xá-khư
(Visakha), về sau là vị nữ thí chủ bậc nhất trong hàng đệ tử
cư sĩ.
Năm thứ 15 (514 TTL):
Ngụ tại thành Ca-tì-la-vệ
(Kapilavatthu) của bộ tộc Thích-ca. Vua Thiện Giác
(Suppabhuddha), cha của công chúa Da-du-đà-la (Yosodhara),
băng hà.
Năm thứ 16 (513 TTL):
Ngụ tại vùng Alavi, phía bắc thành
Ba-na-lại. Ngài hàng phục quỷ ăn thịt người Alavaka, sau đó,
quỷ xin quy y Tam Bảo và nguyện hộ trì Chánh Pháp.
Năm thứ 17 (512 TTL):
Ngụ tại tinh xá Trúc Lâm, thành
Vương-xá.
Năm thứ 18 và 19 (511-510 TTL):
Ngụ tại núi đá Caliya.
Năm thứ 20 (509 TTL):
Ngụ tại tinh xá Trúc Lâm, thành
Vương-xá. Vào một buổi sáng, trên đường đi khất thực, Ngài
hóa độ tướng cướp Vô Não (Angulimala). Ðức Phật bị ngoại đạo
vu cáo là đã mưu sát bà Sundari.
Năm thứ 21 (508 TTL):
Ngụ tại tinh xá Trúc Lâm, thành
Vương-xá. Tôn giả A-nan (Ananda) chính thức nhận lời làm thị
giả hầu cận Ðức Phật.
Năm thứ 22-44 (507-485 TTL):
Trong thời gian 23 năm này, Đức
Phật thường ngụ tại tinh xá Kỳ-viên. Ngài cũng đến ngụ tại
tinh xá Ðông viên (Pubbarama), phía đông thành Xá-vệ, do bà
Tỳ-xá-khư cúng dường. Hai vị đại trưởng lão Xá-lợi-phất và
Mục-kiền-liên lần lượt tịch diệt vào năm 485 TTL.
Năm thứ 45 (484 TTL):
Ngụ tại làng Beluva, phía nam thành
Vệ-xá-li, Ngài trải qua một cơn bệnh rất trầm trọng. Sau khi
bình phục, vào buổi trưa ngày rằm tháng Magha (tháng Giêng
âm lịch), tại điện thờ Capala, Ngài tuyên bố sẽ nhập diệt
sau 3 tháng. Đức Phật tiếp tục du hành qua các làng khác và
nhập diệt tại làng Kusinara (Câu-thi-na) của bộ tộc Malla, vào đêm trăng
rằm tháng Vesakha (tương đương với tháng Tư âm lịch).
*
Tham khảo: