14. And when the Blessed One had passed away, simultaneously with his Parinibbana, Sakka, king of the gods,61 spoke this stanza: |
14. Khi Thế Tôn diệt độ, Thiên chủ Sakka, cùng lúc Ngài diệt độ, thốt lên bài kệ này: |
||||
Transient are all compounded things, Subject to arise and vanish; Having come into existence they pass away; Good is the peace when they forever cease. |
| ||||
15. And when the Blessed One had passed away, simultaneously with his Parinibbana, the Venerable Anuruddha spoke this stanza: |
15. Khi Thế Tôn diệt độ, tôn giả Anuruddha, cùng lúc Ngài diệt độ, thốt lên bài kệ này: | ||||
No movement of the breath, but with steadfast heart, Free from desires and tranquil — so the sage Comes to his end. By mortal pangs unshaken, His mind, like a flame extinguished, finds release. |
| ||||
16. And when the Blessed One had passed away, simultaneously with his Parinibbana, the Venerable Ananda spoke this stanza: |
16. Khi Thế Tôn diệt độ, tôn giả Ananda, cùng lúc Ngài diệt độ, thốt lên bài kệ này: | ||||
Then there was terror, and the hair stood up, when he, The All-accomplished One, the Buddha, passed away. |
| ||||
17. Then, when the Blessed One had passed away, some bhikkhus, not yet freed from passion, lifted up their arms and wept; and some, flinging themselves on the ground, rolled from side to side and wept, lamenting: "Too soon has the Blessed One come to his Parinibbana! Too soon has the Happy One come to his Parinibbana! Too soon has the Eye of the World vanished from sight!" |
17. Khi Thế Tôn diệt độ, những Tỷ-kheo chưa giải thoát tham ái, có vị th́ khóc than với cánh tay duỗi cao, có vị th́ khóc than, thân nằm nhoài dưới đất, lăn lộn qua lại: "Thế Tôn nhập diệt quá sớm, Thiện Thệ nhập diệt quá sớm, Pháp nhăn biến mất ở trên đời quá sớm". | ||||
But the bhikkhus who were freed from passion, mindful and clearly comprehending, reflected in this way: "Impermanent are all compounded things. How could this be otherwise?" |
C̣n những Tỷ-kheo đă diệt trừ tham ái, những vị này an trú chánh niệm tỉnh giác, nhẫn nại, suy tư: "Các hành là vô thường, làm sao tránh khỏi sự kiện ấy?" | ||||
18. And the Venerable Anuruddha addressed the bhikkhus, saying: "Enough, friends! Do not grieve, do not lament! For has not the Blessed One declared that with all that is dear and beloved there must be change, separation, and severance? Of that which is born, come into being, compounded and subject to decay, how can one say: 'May it not come to dissolution!'? The deities, friends, are aggrieved." |
18. Lúc bấy giờ, tôn giả Anuruddha nói với các Tỷ Kheo: - Thôi các Hiền giả, chớ có sầu năo, chớ có khóc than. Này các Hiền giả, phải chăng Thế Tôn đă tuyên bố ngay từ ban đầu rằng mọi vật ưu ái thân t́nh đều phải sanh biệt, tử biệt và dị biệt. Này các Hiền giả, làm sao có thể được như vầy: " Những ǵ sanh, tồn tại, hữu vi, chịu sự biến hoại mà lại mong khỏi có sự biến dịch? Thật không có sự trạng ấy". Này các Hiền giả, chính chư Thiên đang trách đó. | ||||
"But, venerable sir, of what deities is the Venerable Anuruddha aware?" |
- Thưa Tôn giả Anuruddha, Tôn giả đang nghĩ đến hạng chư Thiên nào? | ||||
"There are deities, friend Ananda, in space and on the earth who are earthly-minded; with dishevelled hair they weep, with uplifted arms they weep; flinging themselves on the ground, they roll from side to side, lamenting: 'Too soon has the Blessed One come to his Parinibbana! Too soon has the Happy One come to his Parinibbana! Too soon has the Eye of the World vanished from sight!' But those deities who are freed from passion, mindful and clearly comprehending, reflect in this way: 'Impermanent are all compounded things. How could this be otherwise?'" |
- Hiền giả Ananda, có hạng chư Thiên ở trên hư không nhưng có tâm tư thế tục, những vị này khóc than với đầu bù tóc rối, khóc than với cánh tay duỗi cao, khóc than thân bổ nḥai dưới đất, lăn lộn qua lại: "Thế Tôn nhập diệt quá sớm, Thiện Thệ nhập diệt quá sớm, Pháp nhăn biến mất ở trên đời quá sớm". Hiền giả Ananda, có hạng chư Thiên ở trên đất với tâm tư thế tục, những vị này khóc than với đầu bù tóc rối, khóc than với cánh tay duỗi cao, khóc than thân nằm nḥai dưới đất, lăn lộn qua lại: "Thế Tôn nhập diệt quá sớm, Thiện Thệ nhập diệt quá sớm, Pháp nhăn biến mất ở trên đời quá sớm". C̣n những chư Thiên diệt trừ ái dục, những vị này chánh niệm tỉnh giác, chịu đựng với tâm suy tư: "Các hành là vô thường, làm sao có thể khác được?" | ||||
19. Now the Venerable Anuruddha and the Venerable Ananda spent the rest of the night in talking on the Dhamma. Then the Venerable Anuruddha spoke to the Venerable Ananda, saying: "Go now, friend Ananda, to Kusinara, and announce to the Mallas: 'The Blessed One, Vasetthas, has passed away. Do now as seems fitting to you.'" |
19. Tôn giả Anuruddha và tôn giả Ananda luận bàn về Chánh pháp suốt cả đêm c̣n lại. Rồi tôn giả Anuruddha nói với tôn giả Ananda: - Hiền giả Ananda, hăy vào thành Kusinàrà: "Này Vàsetthà, Thế Tôn đă diệt độ, hăy làm những ǵ các Người nghĩ phải làm". | ||||
"So be it, venerable sir." And the Venerable Ananda prepared himself in the forenoon, and taking bowl and robe, went with a companion into Kusinara. |
_ Tôn giả, xin vâng! Tôn giả Ananda vâng lời tôn giả Anuruddha, buổi sáng đắp y, đem theo y bát, cùng một thị giả, vào thành Kusinàrà. | ||||
20. At that time the Mallas of Kusinara had gathered in the council hall to consider that very matter. And the Venerable Ananda approached them and announced: "The Blessed One, Vasetthas, has passed away. Do now as seems fitting to you." |
20. Lúc bấy giờ, dân Mallà ở Kusinàrà đang tụ họp tại giảng đường v́ một vài công vụ. Tôn giả Ananda đến tại giảng đường của dân Mallà ở Kusinàrà, sau khi đến liền nói với dân Mallà ở Kusinàrà: "Này Vàsetthà, Thế Tôn đă diệt độ, hăy làm những ǵ các Người nghĩ phải làm". | ||||
And when they heard the Venerable Ananda speak these words, the Mallas with their sons, their wives, and the wives of their sons, were sorely grieved, grieved at heart and afflicted; and some, with their hair all dishevelled, with arms upraised in despair, wept; flinging themselves on the ground, they rolled from side to side, lamenting: "Too soon has the Blessed One come to his Parinibbana! "Too soon has the Happy One come to his Parinibbana! Too soon has the Eye of the World vanished from sight!" |
Dân Mallà cùng với con trai, con gái và vợ, khi nghe tôn giả Ananda nói như vậy liền đau đớn sầu muộn, tâm tư khổ năo, kẻ th́ khóc than với đầu bù tóc rối, kẻ th́ khóc than với cánh tay duỗi cao, kẻ th́ khóc than thân bổ nḥai dưới đất, lăn lộn qua lại: "Thế Tôn nhập diệt quá sớm, Thiện Thệ nhập diệt quá sớm, Pháp nhăn biến mất ở trên đời quá sớm". | ||||
Homage to the Remains |
^^^^^^ | ||||
21. Then the Mallas of Kusinara gave orders to their men, saying: "Gather now all the perfumes, flower-garlands, and musicians, even all that are in Kusinara." And the Mallas, with the perfumes, the flower-garlands, and the musicians, and with five hundred sets of clothing, went to the Sala Grove, the recreation park of the Mallas, and approached the body of the Blessed One. And having approached, they paid homage to the body of the Blessed One with dance, song, music, flower-garlands, and perfume, and erecting canopies and pavilions, they spent the day showing respect, honor, and veneration to the body of the Blessed One. And then the thought came to them: "Now the day is too far spent for us to cremate the body of the Blessed One. Tomorrow we will do it." |
21. Rồi dân Kusinàrà đem theo hương, tràng hoa, tất cả nhạc khí và năm trăm cuộn vải đi đến Upavattana, tại rừng Sàlà của ḍng họ Mallà, đến tại chỗ thân xá lợi của Thế Tôn, rồi chúng ở lại cả ngày tôn trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường thân xá lợi Thế Tôn với các điệu múa, hát, nhạc, tràng hoa, hương, làm những bảo cái bằng vải và tràng hoa Mandala. Rồi dân Mallà ở Kusinàrà suy nghĩ: "Hôm nay, nếu thiêu thân xá lợi Thế Tôn thời quá sớm. Ngày mai, chúng ta sẽ làm lễ thiêu thân xá lợi của Thế Tôn". | ||||
And for the second day, and a third, fourth, fifth, and sixth day, they paid homage to the body of the Blessed One with dance, song, music, flower-garlands, and perfume, and erecting canopies and pavilions, they spent the day showing respect, honor, and veneration to the body of the Blessed One. |
Rồi dân Mallà ở Kusinàrà, cả ngày thứ hai, tôn trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường thân xá lợi Thế Tôn với các điệu múa, hát, nhạc, tràng hoa, hương, làm những bảo cái bằng vải và tràng hoa Mandala, ngày thứ ba cũng như vậy, ngày thứ tư cũng như vậy, ngày thứ năm cũng như vậy, ngày thứ sáu cũng như vậy. | ||||
But on the seventh day the thought came to them: "We have paid homage to the body of the Blessed One with dance, song, music, flower-garlands, and perfume, and have shown respect, honor, and veneration; let us now carry the body of the Blessed One southward to the southern part of the town and beyond, and let us there cremate the body of the Blessed One south of the town." |
Đến ngày thứ bảy, dân Mallà ở Kusinàrà suy nghĩ: " Chúng ta đă tôn trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường thân xá lợi Thế Tôn với các điệu múa, hát, nhạc, tràng hoa, hương, nay chúng ta hăy chở thân xá lợi Thế Tôn ra ngoài thành về phía Nam và làm lễ thiêu thân tại chỗ ấy". | ||||
And eight Mallas of the foremost families, bathed from the crown of their heads and wearing new clothes, with the thought: "We will lift up the body of the Blessed One," tried to do so but they could not. |
Lúc bấy giờ tám vị tộc trưởng Mallà gội đầu, mặc áo mới với ư định khiêng nổi thân xá lợi Như Lai nhưng không khiêng nổi được. | ||||
22. Then the Mallas spoke to the Venerable Anuruddha, saying: "What is the cause, Venerable Anuruddha, what is the reason that these eight Mallas of the foremost families, bathed from the crown of their heads and wearing new clothes, with the thought: 'We will lift up the body of the Blessed One,' try to do so but cannot?" |
22. Các vị Mallà ở Kusinàrà bạch tôn giả Anuruddha: -Bạch tôn giả, do nhân ǵ, do duyên ǵ, tám vị tộc trưởng Mallà này gội đầu, mặc áo mới với ư định khiêng nổi thân xá lợi Như Lai, nhưng không khiêng nổi được? | ||||
"You, Vasetthas, have one purpose, the deities have another." |
Này Vàsetthà, v́ ư định của các Ngươi khác, ư định của chư Thiên khác. | ||||
"Then what, venerable sir, is the purpose of the deities?" |
- Bạch tôn giả, ư định của chư Thiên là ǵ? | ||||
"Your purpose, Vasetthas, is this: 'We have paid homage to the body of the Blessed One with dance, song, music, flower-garlands, and perfume, and have shown respect, honor, and veneration; let us now carry the body of the Blessed One southward to the southern part of the town and beyond, and let us there cremate the body of the Blessed One south of the town.' But the purpose of the deities, Vasetthas, is this: 'We have paid homage to the body of the Blessed One with heavenly dance, song, music, flower-garlands, and perfume, and have shown respect, honor, and veneration; let us now carry the body of the Blessed One northward to the northern part of the town; and having carried it through the northern gate, let us go through the center of the town, and then eastward to the east of the town; and having passed through the east gate, let us carry it to the cetiya of the Mallas, Makuta-bandhana, and there let us cremate the body of the Blessed One.'" |
- Này các Vàsetthà, ỳ định của các Ngươi như sau: " Chúng ta đă tôn trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường thân xá lợi Thế Tôn với các điệu múa, hát, nhạc, tràng hoa, hương. Nay chúng ta hăy chở thân xá lợi Thế Tôn ra ngoài thành về phía Nam và làm lễ thiêu thân tại chỗ ấy. - Này các Vàsetthà, ư định của chư Thiên như sau: " Chúng ta đă tôn trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường thân xá lợi Thế Tôn với các điệu múa, hát, nhạc, tràng hoa, hương của chư Thiên, nay chúng ta hăy khiêng thân xá lợi Thế Tôn về hướng Bắc đến phía Bắc của thành. Sau khi khiêng qua cửa phía Bắc, hăy khiêng qua trung tâm của thành, rồi hướng về phía Đông, khiêng đến phía Đông của thành. Sau khi khiêng qua cửa phía Đông, hăy khiêng đến phía Đông của thành, tại đền của dân Mallà tên là Makuta-bandhana, và chúng ta sẽ thiêu thân Thế Tôn tại chỗ ấy." | ||||
"As the deities wish, venerable sir, so let it be." |
- Bạch tôn giả, ư định của chư Thiên thế nào, ư định của chúng con cũng vậy.
23. Thereupon the whole of Kusinara, even to the dust heaps and rubbish heaps, became covered knee-deep in mandarava flowers.62 And homage was paid to the body of the Blessed One by the deities as well as the Mallas of Kusinara. With dance, song, music, flower-garlands, and perfume, both divine and human, respect, honor, and veneration were shown. And they carried the body of the Blessed One northward to the northern part of the town; and having carried it through the northern gate, they went through the center of the town, and then eastward to the east of the town; and having passed through the east gate, they carried the body of the Blessed One to the cetiya of the Mallas, Makuta-bandhana, and there laid it down.
23. Lúc ấy, khắp cả Kusinàrà cho đến đống bụi, đống rác, được rải la liệt lên đến đầu gối ṭan hoa Mandaràva. Rồi chư Thiên và các dân Mallà ở Kusinàrà, sau khi đă tôn trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường thân xá lợi Thế Tôn với các điệu múa, hát, nhạc, tràng hoa, hương của chư Thiên và loài Người, liền khiêng thân xá lợi Thế Tôn về hướng Bắc đến phía Bắc của thành. Sau khi khiêng qua cửa phía Bắc, liền khiêng qua trung tâm của thành, rồi hướng về phía Đông, khiêng đến phía Đông của thành. Sau khi khiêng qua cửa phía Đông, liền khiêng đến phía Đông của thành, tại đền của dân Mallà tên là Makuta-bandhana và đặt thân xá lợi của Thế Tôn tại chỗ ấy.
24. Then the Mallas of Kusinara spoke to the Venerable Ananda, saying: "How should we act, Venerable Ananda, respecting the body of the Tathagata?"
24. Rồi dân Mallà bạch tôn giả Ananda:
- Bạch Tôn giả Ananda, chúng con nay phải xử sự như thế nào đối với thân xá lợi Như Lai?
| ||||
"After the same manner, Vasetthas, as towards the body of a universal monarch." |
- Này các Vàsetthà, xử sự thân Chuyển luân Thánh vương như thế nào, hăy xử sự thân xá lợi Như Lai như vậy. | ||||
"But how, venerable Ananda, do they act respecting the body of a universal monarch?" |
- Bạch Tôn giả Ananda, xử sự thân Chuyển luân Thánh vương phải như thế nào? | ||||
"The body of a universal monarch, Vasetthas, is first wrapped round with new linen, and then with teased cotton wool. And again it is wrapped round with new linen, and again with teased cotton wool, and so it is done up to five hundred layers of linen and five hundred of cotton wool. When that is done, the body of the universal monarch is placed in an iron oil-vessel, which is enclosed in another iron vessel and a funeral pyre is built of all kinds of perfumed woods, and so the body of the universal monarch is burned. And at a crossroads a stupa is raised for the universal monarch. So it is done, Vasetthas, with the body of a universal monarch. |
- Này các Vàsetthà, thân Chuyển luân Thánh vương được vấn tṛn với vải mới. Sau khi vấn vải mới, lại được vấn thêm với vải gai bện. Sau khi vấn với vải gai bện, lại vấn thêm với vải mới và tiếp tục như vậy cho đến năm trăm lớp cả hai loại vải. Rồi thân được đặt trong một ḥm dầu bằng sắt, ḥm sắt này được một ḥm sắt khác đậy kín. Xong một giàn hỏa gồm mọi loại hương được xây dựng lên, thân vị Chuyển luân Thánh vương được đem thiêu trên giàn hỏa này, và tại ng tư đường, tháp vị Chuyển luân Thánh vương này được xây dựng lên. Này các Vàsetthà, đó là pháp táng thân của vị Chuyển luân Thánh vương. | ||||
"And even, Vasetthas, as with the body of a universal monarch, so should it be done with the body of the Tathagata; and at a crossroads also a stupa should be raised for the Tathagata. And whoever shall bring to that place garlands or incense or sandalwood paste, or pay reverence, and whose mind becomes calm there — it will be to his well being and happiness for a long time." |
Này các Vàsetthà, pháp táng thân của vị Chuyển luân Thánh vương như thế nào, pháp táng thân của Thế Tôn cũng như vậy. Tháp của Như Lai phải được dựng lên tại ngă tư đường. Và những ai đem đến tại chỗ ấy ṿng hoa, hương, hay hương bột nhiều màu, đảnh lễ tháp hay khởi tâm hoan hỷ (khi đứng trước mặt tháp) , thời những người ấy sẽ được lợi ích, hạnh phúc lâu dài. | ||||
25. Then the Mallas gave orders to their men, saying: "Gather now all the teased cotton wool of the Mallas!" And the Mallas of Kusinara wrapped the body of the Blessed One round with new linen, and then with teased cotton wool. And again they wrapped it round with new linen, and again with teased cotton wool, and so it was done up to five hundred layers of linen and five hundred of cotton wool. When that was done, they placed the body of the Blessed One in an iron oil-vessel, which was enclosed in another iron vessel, and they built a funeral pyre of all kinds of perfumed woods, and upon it they laid the body of the Blessed One. |
25. Và các người Mallà ở Kusinàrà sai những người làm công: - Hăy đem lại tất cả vải gai bện của Mallà . Rồi những người Mallà ở Kusinàrà vấn tṛn thân Thế Tôn với vải mới. Sau khi vấn vải mới xong, lại vấn thêm với vải gai bện. Sau khi vấn với vải gai bện lại vấn thêm với vải mới và tiếp tục như vậy cho đến năm trăm lớp cả hai loại vải. Rồi đặt thân Như Lai vào trong một ḥm dầu bằng sắt, đậy ḥm sắt này vào một ḥm sắt khác, dựng lên một giàn hỏa gồm mọi loại hương và đặt thân Thế Tôn trên giàn hỏa. | ||||
26. Now at that time the Venerable Maha Kassapa63 was journeying from Pava to Kusinara together with a large company of five hundred bhikkhus. And on the way, the Venerable Maha Kassapa went aside from the highway and sat down at the foot of a tree. |
26. Lúc bấy giờ, Tôn giả Mallà Kassapa đang đi giữa đường từ Pàvà đến Kusinàrà với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị. Rồi Tôn giả Mallà Kassapa bước xuống đường và đến ngồi tại một gốc cây. | ||||
And a certain Ajivaka came by, on his way to Pava, and he had taken a mandarava flower from Kusinara. And the Venerable Maha Kassapa saw the Ajivaka coming from a distance, and as he drew close he spoke to him, saying: "Do you know, friend, anything of our Master?" |
Lúc bấy giờ có một tà mạng ngoại đạo lấy một hoa Mandàrava ở Kusinàrà và đang đi trên một con đường đến Pàvà. Tôn giả Mallà Kassapa thấy tà mạng ngoại đạo đi từ đàng xa đến. Thấy vạya, tôn giả liền hỏi tà mạng ngoại đạo ấy: - Này Hiền giả, Hiền giả có biết bậc Đạo sư chúng tôi không? | ||||
"Yes, friend, I know. It is now seven days since the ascetic Gotama passed away. From there I have brought this mandarava flower." |
- Này Hiền giả, tôi có biết. Sa-môn Gotama đă diệt độ cách hôm nay một tuần. Từ chỗ ấy, tôi được hoa Mandàrava này. | ||||
27. Thereupon some bhikkhus, not yet freed from passion, lifted up their arms and wept; and some, flinging themselves on the ground, rolled from side to side and wept, lamenting: "Too soon has the Blessed One come to his Parinibbana! Too soon has the Happy One come to his Parinibbana! Too soon has the Eye of the World vanished from sight!" |
27. Lúc ấy những Tỷ-kheo chưa giải thoát tham ái, có vị th́ khóc than với cánh tay duỗi cao, có vị th́ khóc than, thân nằm nhoài dưới đất, lăn lộn qua lại: "Thế Tôn nhập diệt quá sớm, Thiện Thệ nhập diệt quá sớm, Pháp nhăn biến mất ở trên đời quá sớm". | ||||
28. Now at that time, one Subhadda, who had renounced only in his old age, was seated in the assembly.64 And he addressed the bhikkhus, saying: "Enough, friends! Do not grieve, do not lament! We are well rid of that great ascetic. Too long, friends, have we been oppressed by his saying: 'This is fitting for you; that is not fitting for you.' Now we shall be able to do as we wish, and what we do not wish, that we shall not do." |
28. Lúc bấy giờ, Subhadda được xuất gia khi đă lớn tuổi đang ngồi trong hội chúng này. Subhadda được xuất gia khi đă lớn tuổi nói với những Tỷ-kheo ấy: - Thôi các Hiền giả, chớ có sầu năo, chớ có khóc than. Chúng ta đă được thoát khỏi hoàn toàn vị Đại Sa-môn ấy, chúng ta đă bị phiền nhiễu quấy rầy với những lời: "Làm như thế này không hợp với các Ngươi. Làm như thế này hợp với các Ngươi". Nay những ǵ chúng ta muốn, chúng ta làm, những ǵ chúng ta không muốn, chúng ta không làm. | ||||
But the Venerable Maha Kassapa addressed the bhikkhus, saying: "Enough friends! Do not grieve, do not lament! For has not the Blessed One declared that with all that is dear and beloved there must be change, separation, and severance? Of that which is born, come into being, compounded, and subject to decay, how can one say: 'May it not come to dissolution!'?" |
Tôn giả Mahà Kassapa mới nói với các vị Tỷ-kheo: - Thôi các Hiền giả, chớ có sầu năo, chớ có khóc than. Này các Hiền giả, phải chăng Thế Tôn đă tuyên bố ngay từ ban đầu rằng mọi vật ưu ái thân t́nh đều phải bị sanh biệt, tử biệt và dị biệt. Này các Hiền giả, làm sao có thể được như vầy: Những ǵ sanh, tồn tại, hữu vi, chịu sự biến hoại mà lại mong khỏi có sự biến dịch? Thật không có sự trạng ấy. | ||||
29. Now at that time four Mallas of the foremost families, bathed from the crown of their heads and wearing new clothes, with the thought: "We will set alight the Blessed One's pyre," tried to do so but they could not. And the Mallas spoke to the Venerable Anuruddha, saying: "What is the cause, Venerable Anuruddha, what is the reason that these four Mallas of the foremost families, bathed from the crown of their heads and wearing new clothes, with the thought: "We will set alight the Blessed One's pyre,' try to do so but cannot?" |
29. Lúc bấy giờ bốn vị tộc trưởng Mallà gội đầu, mặc áo mới với ư định châm lửa thiêu giàn hỏa Thế Tôn nhưng châm lửa không cháy. Các vị Mallà ở Kusinàrà bạch tôn giả Anuruddha: - Bạch Tôn giả, do nhân ǵ, do duyên ǵ, bốn vị tộc trưởng Mallà này gội đầu, mặc áo mới với ư định châm lửa thiêu giàn hỏa Thế Tôn, nhưng châm lửa không cháy? | ||||
"You, Vasetthas, have one purpose, the deities have another." |
- Này các Vàsetthà, ư định của chư Thiên khác. | ||||
"Then what, venerable sir, is the purpose of the deities?" |
- Bạch Tôn giả, ư định của chư Thiên như thế nào? | ||||
"The purpose of the deities, Vasetthas, is this: 'The Venerable Maha Kassapa is on his way from Pava to Kusinara together with a large company of five hundred bhikkhus. Let not the Blessed One's pyre be set alight until the Venerable Maha Kassapa has paid homage at the feet of the Blessed One.'" |
- Này các vàsetthà, ư định của chư Thiên như sau: "Tôn giả Mahà Kassapa nay đang đi giữa đường giữa Pàvà và Kusinàrà cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị. Giàn hỏa Thế Tôn chỉ được đốt cháy khi tôn giả Mahà Kassapa cúi đầu đảnh lễ Thế Tôn". | ||||
"As the deities wish, venerable sir, so let it be." |
- Bạch Tôn giả, ư định chư Thiên như thế nào, hăy làm y như vậy. | ||||
30. And the Venerable Maha Kassapa approached the pyre of the Blessed One, at the cetiya of the Mallas, Makuta-bandhana, in Kusinara. And he arranged his upper robe on one shoulder, and with his clasped hands raised in salutation, he walked three times round the pyre, keeping his right side towards the Blessed One's body, and he paid homage at the feet of the Blessed One. And even so did the five hundred bhikkhus. |
30. Rồi Tôn giả Mahà Kassapa đến tại đền Makuta Bandhana của những vị Mallà tại giàn hỏa Thế Tôn, khi đến xong liền choàng áo phía một bên vai, chấp tay, đi nhiễu phía tay phải xung quanh giàn hỏa ba lần, cởi mở chân ra và cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn. Năm trăm vị Tỷ-kheo ấy choàng áo phía một bên vai, chấp tay, đi nhiễu qua phía tay phải xung quanh giàn hỏa ba lần và cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn. | ||||
And when homage had been paid by the Venerable Maha Kassapa and the five hundred bhikkhus, the pyre of the Blessed One burst into flame by itself. |
Và khi tôn giả Mahà Kassapa và năm trăm vị Tỷ-kheo đảnh lễ xong, thời giàn hỏa Thế Tôn tự bắt lửa cháy. | ||||
31. And it came about that when the body of the Blessed One had been burned, no ashes or particles were to be seen of what had been skin, tissue, flesh, sinews, and fluid; only bones remained. Just as when ghee or oil is burned, it leaves no particles or ashes behind, even so when the body of the Blessed One had been burned, no ashes or particles were to be seen of what had been skin, tissue, flesh, sinews, and fluid; only bones remained. And of the five hundred linen wrappings, only two were not consumed, the innermost and the outermost. |
31. Khi thân Thế Tôn đă cháy, từ da ngoài cho đến da mỏng, thịt, dây gân hay nước giữa các khớp xương, thảy đều cháy sạch không có tro, không có than, chỉ có xương xá lợi c̣n lại. Như sanh tô hay dầu bị cháy, tất cả đều cháy sạch không có tro, không có than, cũng vậy khi thân Thế Tôn cháy, từ da ngoài cho đến da mỏng, thịt, dây gân hay nước giữa khớp xương, tất cả đều cháy sạch không có tro, không có than, chỉ có xương xá lợi c̣n lại. Và năm trăm tầng lớp vải gai bện, cả hai lớp trong nhất và lớp ngoài nhất đều bị cháy thiêu. | ||||
32. And when the body of the Blessed One had been burned, water rained down from heaven and extinguished the pyre of the Blessed One, and from the sala trees water came forth, and the Mallas of Kusinara brought water scented with many kinds of perfumes, and they too extinguished the pyre of the Blessed One. |
32. Khi thân Thế Tôn bị thiêu cháy xong, một ḍng nước từ hư không chảy xuống tưới tắt giàn hỏa Thế Tôn, và một ḍng nước từ kho nước (hay từ cây sàlà) phun lên tưới tắt giàn hỏa Thế Tôn, và các người Mallà ở Kusinàrà dùng nước với mọi loại hương tưới tắt giàn hỏa Thế Tôn. | ||||
And the Mallas of Kusinara laid the relics of the Blessed One in their council hall, and surrounded them with a lattice-work of spears and encircled them with a fence of bows; and there for seven days they paid homage to the relics of the Blessed One with dance, song, music, flower-garlands, and perfume, and showed respect, honor, and veneration to the relics of the Blessed One. |
Rồi các người Mallà xứ Kusinàrà đặt xá lợi Thế Tôn trong giảng đường, dùng cây thương làm hàng rào, dùng cây cung làm bức thành xung quanh và trong bảy ngày tôn trng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường với các điệu múa, hát, nhạc, ṿng hoa, hương. | ||||
Partition of the Relics |
^^^^^^ | ||||
33. Then the king of Magadha, Ajatasattu, son of the Videhi queen, came to know that at Kusinara the Blessed One had passed away. And he sent a message to the Mallas of Kusinara, saying: "The Blessed One was of the warrior caste, and I am too. I am worthy to receive a portion of the relics of the Blessed One. I will erect a stupa over the relics of the Blessed One and hold a festival in their honor." |
33. Vua nước Magadha tên là Ajàtasattu Vedehiputta nghe tin Thế Tôn đă diệt độ ở Kusinàrà. Vua liền gởi một sứ giả đến các người Mallà ở Kusinàrà "Thế Tôn là người Sát-đế-lỵ, ta cũng là người Sát-đế-lỵ. Ta cũng xứng đáng được một phần xá lợi Thế Tôn, ta cũng dựng tháp và tổ chức nghi lễ đối với xá lợi Thế Tôn". | ||||
34. And the Licchavis of Vesali came to know that at Kusinara the Blessed One had passed away. And they sent a message to the Mallas of Kusinara, saying: "The Blessed One was of the warrior caste, and we are too. We are worthy to receive a portion of the relics of the Blessed One. We will erect a stupa over the relics of the Blessed One and hold a festival in their honor." |
34. Những người Licchav́ ở Vesàli nghe tin Thế Tôn đă diệt độ ở Kusinàrà liền gởi một sứ giả đến các người Mallà ở Kusinàrà: "Thế Tôn là người Sát-đế-lỵ, chúng tôi cũng là người Sát-đế-lỵ. Chúng tôi cũng xứng đáng được phần xá lợi Thế Tôn. Chúng tôi cũng dựng tháp và tổ chức nghi lễ đối với xá-lợi Thế Tôn". | ||||
35. And the Sakyas of Kapilavatthu came to know that at Kusinara the Blessed One had passed away. And they sent a message to the Mallas of Kusinara, saying: "The Blessed One was the greatest of our clan. We are worthy to receive a portion of the relics of the Blessed One. We will erect a stupa over the relics of the Blessed One and hold a festival in their honor." |
35. Các người Sakyà ở Kapilavatthu nghe tin Thế Tôn đă diệt độ ở Kusinàrà, liền gởi một sứ giả đến các người Mallà ở Kusinàrà: "Thế Tôn là người Sát-đế-lỵ, chúng tôi cũng là người Sát-đế-lỵ. Chúng tôi cũng xứng đáng được một phần xá lợi Thế Tôn. Chúng tôi cũng sẽ dựng tháp và tổ chức các nghi lễ với xá-lợi Thế Tôn". | ||||
36. And the Bulis of Allakappa came to know that at Kusinara the Blessed One had passed away. And they sent a message to the Mallas of Kusinara, saying: "The Blessed One was of the warrior caste, and we are too. We are worthy to receive a portion of the relics of the Blessed One. We will erect a stupa over the relics of the Blessed One and hold a festival in their honor." |
36. Những người Buli ở Allakappa nghe tin Thế Tôn đă diệt độ ở Kusinàrà, liền gởi một sứ giả đến các người Mallà ở Kusinàrà: "Thế Tôn là người Sát-đế-lỵ, chúng tôi cũng là người Sát-đế-lỵ. Chúng tôi cũng xứng đáng được một phần xá-lợi Thế Tôn. Chúng tôi cũng sẽ dựng tháp và tổ chức các nghi lễ đốis với xá lợi Thế Tôn". | ||||
37. And the Kolis of Ramagama came to know that at Kusinara the Blessed One had passed away. And they sent a message to the Mallas of Kusinara, saying: "The Blessed One was of the warrior caste, and we are too. We are worthy to receive a portion of the relics of the Blessed One. We will erect a stupa over the relics of the Blessed One and hold a festival in their honor." |
37. Những người Koli ở Rămagăma nghe tin Thế Tôn đă diệt độ ở Kusinàrà , liền gởi một sứ giả đến các người Mallà ở Kusinàrà: "Thế Tôn là người Sát-đế-lỵ, chúng tôi cũng là người Sát-đế-lỵ. Chúng tôi cũng xứng đáng được một phần xá lợi Thế Tôn. Chúng tôi cũng sẽ dựng tháp và tổ chức các nghi lễ đối với xá lợi Thế Tôn." | ||||
38. And the Vethadipa brahman came to know that at Kusinara the Blessed One had passed away. And he sent a message to the Mallas of Kusinara, saying: "The Blessed One was of the warrior caste, and I am a brahman. I am worthy to receive a portion of the relics of the Blessed One. I will erect a stupa over the relics of the Blessed One and hold a festival in their honor." |
38. Bà-la-môn Vethad́paka nghe tin Thế Tôn đă diệt độ ở Kusinàrà, liền gởi một sứ giả đến các người Mallà ở Kusinàrà: "Thế Tôn là người Sát-đế-lỵ, tôi là người Bà-la-môn. Tôi cũng xứng đáng được một phần xá lợi Thế Tôn. Tôi cũng sẽ dựng tháp và tổ chức các nghi lễ đối với xá-lợi Thế Tôn". | ||||
39. And the Mallas of Pava came to know that at Kusinara the Blessed One had passed away. And they sent a message to the Mallas of Kusinara, saying: "The Blessed One was of the warrior caste, and we are too. We are worthy to receive a portion of the relics of the Blessed One. We will erect a stupa over the relics of the Blessed One and hold a festival in their honor." |
39. Các người Mallà ở Pàvà nghe tin Thế Tôn đă diệt độ liền gửi một sứ giả đến các người Mallà ở Kusinàrà: "Thế Tôn là người Sát-đế-lỵ, chúng tôi cũng là người Sát-đế-lỵ. Chúng tôi cũng xứng đáng được một phần xá-lợi Thế Tôn. Chúng tôi cũng sẽ dựng tháp và tổ chức các nghi lễ đối với xá-lợi Thế Tôn". | ||||
40. But when they heard these words, the Mallas of Kusinara addressed the assembly, saying: "The Blessed One has passed away in our township. We shall not part with any portion of the relics of the Blessed One." Then the brahman Dona spoke to the assembly, saying: |
40. Khi được nói vậy các người Mallà ở Kusinàrà liền tuyên bố giữa đại chúng: - Thế Tôn đă diệt độ tại làng vườn của chúng tôi, chúng tôi sẽ không cho phần xá lợi nào của Thế Tôn. Khi nghe vậy. Bà-la-môn Dona nói với chúng: | ||||
One word from me, I beg you, sirs, to hear! Our Buddha taught us ever to forbear; Unseemly would it be should strife arise And war and bloodshed, over the custody Of his remains, who was the best of men! Let us all, sirs, in friendliness agree To share eight portions — so that far and wide Stupas may rise, and seeing them, mankind Faith in the All-Enlightened One will find! |
| ||||
"So be it, brahman! Divide the relics into eight equal portions yourself." |
- Này Tôn giả Bà-la-môn, Ngài hăy phân chia xá lợi ra tám phần đồng đều. | ||||
And the brahman Dona said to the assembly: "So be it, sirs." And he divided justly into eight equal portions the relics of the Blessed One, and having done so, he addressed the assembly, saying: "Let this urn, sirs, be given to me. Over this urn I will erect a stupa, and in its honor I will hold a festival." And the urn was given to the brahman Dona. |
- Xin vâng, các Tôn giả. Bà-la-môn Dona vâng lời hội chúng ấy, phân chia xá-lợi Thế Tôn thành tám phần đồng đều rồi thưa hội chúng: - Các Tôn giả, hăy cho tôi cái b́nh dùng để đông chia xá-lợi này. Tôi sẽ dựng tháp và tổ chức các nghi lễ cho cái b́nh. Và hội chúng ấy tặng Bà-la-môn Dona cái b́nh. | ||||
41. Then the Moriyas of Pipphalivana came to know that at Kusinara the Blessed One had passed away. And they sent a message to the Mallas of Kusinara, saying: "The Blessed One was of the warrior caste, and we are too. We are worthy to receive a portion of the relics of the Blessed One. We will erect a stupa over the relics of the Blessed One and hold a festival in their honor." |
41. Và người Moriyà ở Pipphalivana nghe tin Thế Tôn đă diệt độ liền gởi một sứ giả đến các người Mallà ở Kusinàrà: "Thế Tôn là người Sát-đế-lỵ, chúng tôi cũng là người Sát-đế-lỵ. Chúng tôi cũng xứng đáng được hưởng một phần xá lợi Thế Tôn. Chúng tôi cũng sẽ dựng tháp và tổ chức các nghi lễ đối với xá-lợi Thế Tôn". | ||||
"There is no portion of the relics of the Blessed One remaining; the relics of the Blessed One have been divided. But take from here the ashes." And they took from there the ashes. |
"Nay không c̣n phần xá-lợi Thế Tôn nào. Xá-lợi Thế Tôn đă được phân chia, hăy lấy tro c̣n lại". Rồi các vị nầy lấy than tro c̣n lại. | ||||
42. And the king of Magadha, Ajatasattu, son of the Videhi queen, erected a stupa over the relics of the Blessed One at Rajagaha, and in their honor held a festival. The Licchavis of Vesali erected a stupa over the relics of the Blessed One at Vesali, and in their honor held a festival. The Sakyas of Kapilavatthu erected a stupa over the relics of the Blessed One at Kapilavatthu, and in their honor held a festival. The Bulis of Allakappa erected a stupa over the relics of the Blessed One at Allakappa, and in their honor held a festival. The Kolis of Ramagama erected a stupa over the relics of the Blessed One at Ramagama, and in their honor held a festival. The Vethadipa brahman erected a stupa over the relics of the Blessed One at Vethadipa, and in their honor held a festival. The Mallas of Pava erected a stupa over the relics of the Blessed One at Pava, and in their honor held a festival. The Mallas of Kusinara erected a stupa over the relics of the Blessed One at Kusinara, and in their honor held a festival. The brahman Dona erected a stupa over the urn, and in its honor held a festival. And the Moriyas of Pipphalivana erected a stupa over the ashes at Pipphalivana, and in their honor held a festival. |
42. Và vua nước Magadha tên là Ajàtasattu, con bà Videhi xây dựng tháp trên xá-lợi Thế Tôn tại Vương Xá và tổ chức lễ cúng dường. Những người Licchavi ở Vesàli cũng xây dựng tháp trên xá-lợi Thế Tôn tại Vesàli và tổ chức lễ cúng dường. Những người Sakya ở Kapilavatthu cũng xây dựng trên xá-lợi Thế Tôn tại Kapilavatthu và tổ chức lễ cúng dường. Những người Buli ở Allakappa cũng xây dựng tháp trên xá lợi Thế Tôn tại Allakappa và tổ chức lễ cúng dường. Những người Koli ở Ràmagama cũng xây dựng tháp trên xá-lợi Thế Tôn tại Ràmagama và tổ chức lễ cúng dường. Bà-la-môn Vethad́paka cũng xây dựng tháp trên xá-lợi Thế Tôn tại Vethad́pa và tổ chức lễ cúng dường. Những người Mallà ở Pàvà cũng xây dựng tháp trên xá-lợi Thế Tôn tại Pàvà và tổ chức lễ cúng dường. Những người Màllà ở Kusinàrà cũng xây dựng tháp trên xá-lợi Thế Tôn tại Kusinàrà và tổ chức lễ cúng dường. Bà-la-môn Dona cũng xây dựng tháp trên b́nh (dùng để đong chia xá-lợi) và tổ chức lễ cúng dường. Những người Moriyà ở Pipphalivana cũng xây dựng tháp trên những than tro và tổ chức lễ cúng dường. | ||||
So it came about that there were eight stupas for the relics, a ninth for the urn, and a tenth for the ashes. |
Như vậy có tám tháp xá-lợi, tháp thứ chín trên b́nh (dùng để đong chia xá-lợi) và tháp thứ mười trên tro (xá-lợi). | ||||
And thus it was in the days of old. |
Đó là truyền thống thời xưa như vậy. | ||||
43. Eight portions there were of the relics of him, The All-Seeing One, the greatest of men. Seven in Jambudipa are honored, and one In Ramagama, by kings of the Naga race. One tooth is honored in the Tavatimsa heaven, One in the realm of Kalinga, and one by the Naga kings. Through their brightness this bountiful earth With its most excellent gifts is endowed; For thus the relics of the All-Seeing One are best honored By those who are worthy of honor — by gods and Nagas And lords of men, yea, by the highest of mankind. Pay homage with clasped hands! For hard indeed it is Through hundreds of ages to meet with an All-Enlightened One!65 |
| ||||
Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng. Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com |
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006 Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp | ||||